Sunday, April 20, 2014

(Audio) Sống Để Kể Lại - Tự Truyện Gabriel Garcia Marquez



Gabriel Garcia Marquez - Sống để kể lại

Bất chợt người chồng dừng xe, quanh mặt lại và run run nói với vợ rằng mình đã tìm ra được "giọng kể về Macondo" và sẵn sàng đọc ra từng chữ để viết nên tác phẩm lớn nhất trong đời mình. Trong niềm hân hoan tột độ, anh ta quay ngoắt xe lại trở về nhà trong khi người vợ trẻ vẫn không hiểu chuyện gì đang xảy ra.

Đó là ngày đánh dấu bước ngoặt cho sự ra đời của một trong những tác phẩm văn học vĩ đại nhất trong thế kỷ XX, "Trăm năm cô đơn", và cũng là bước ngoặt để một nhà văn thiên tài bước ra ánh sáng- Gabriel Garcia Marquez.

Đi tìm Macondo
Gabriel Garcia Marque, Ảnh Wikipedia
Macondo là một từ rất hiếm gặp, và thực tế Marquez chỉ nhìn thấy nó duy nhất một lần trong một chuyến đi về thăm quê cùng mẹ. Đó là tên của một trại chế biến chuối, nằm cô độc ở bên cạnh một cái nhà ga nhỏ cũng hoang vắng không kém. Nhưng đối với Marquez, cái tên đó đưa ông trở về tuổi thơ kì lạ với những câu chuyện mang đầy vừa mang tính thần thoại, vừa đầy rẫy sắc màu cuộc sống của ông bà ngoại.

Đối với ông, nó không chỉ là một cái trại chế biến cũ kĩ ở một vùng đất bị lãng quên, mà là cả một thành phố tưởng tượng, nơi ông xây dựng một xã hội của riêng mình và cả một hệ thống quyền lực bao quanh nó. Trong hệ thống đó,

Marquez muốn lột tả được hết mọi góc cạnh của xã hội ông đang sống, cả những sự kiện lịch sử, những mất mát đau thương, mặt xấu xa của loài người, và trên tất cả là nỗi cô đơn bao trùm tất cả các số phận.

Hành trình đi tìm Macondo của Marquez cũng giống như những kẻ chinh phục phương Tây xưa đi tìm thành phố vàng huyền thoại El Dorado, không tung tích, không manh mối, chỉ biết là nó ở đâu đó phía sau dãy Andes, trong khu rừng Amazon, hay dọc những bờ biển bí ẩn nào đó trải dọc Thái Bình Dương.


Khoảng khắc kì lạ trên đường tới Alcapulco chỉ là manh mối để ông tìm tới Macondo, còn  hành trình 18 tháng đóng cửa viết văn của ông mới thực sự là vô cùng gian nan, mới có thể minh chứng cho sự hết mình vì nghệ thuật của Marquez. Sau khi trở về nhà từ chuyến đi nghỉ mát bất thành, ông giao hết việc nhà vợ, bán ô tô và một số tài sản có giá trị khác để có tiền mua cả biển giấy bản thảo và thuốc lá mỗi ngày.


Bạn bè bắt đầu gọi căn phòng đầy khói thuốc của ông là "động Mafia", nơi "chúa động" miệt mài đi tìm đến cùng Macondo của ông trên từng trang giấy. Và sau gần hai năm, Marquez bước ra khỏi phòng, kiệt sức và phờ phạc đi rất nhiều, bán đi số đồ đạc còn lại của mình để có tiền gửi bản thảo đến nhà xuất bản ở Buenos Aires, Argentina và đánh cuộc một tập giấy dày hơn 1.300 trang với khoản nợ lên tới 10.000 đô la.


Canh bạc của Marquez đã thành công ngoài sức tưởng tượng. Chỉ trong vòng một tuần lễ,  khi ngôi làng tưởng tượng của Marquez cùng với tác phẩm "Trăm năm cô đơn" trở thành hiện tượng văn học vang dội, sục sôi trên toàn Nam Mỹ. Thế giới bắt đầu biết tới văn học Mỹ Latin với "chủ nghĩa hiện thực huyền ảo" (magic realism), thứ văn chương ảo diệu hòa trộn giữa việc hiện thực của cuộc sống và tính huyền thoại rất đặc trưng của văn hóa Nam Mỹ.


Cho đến cuối thế kỷ XX, "Trăm năm cô đơn" đã được dịch ra hơn 30 thứ tiếng và bán được hơn 10 triệu bản, thành tích đáng nể cho một tác phẩm thuộc loại kinh điển và lại không dùng tiếng Anh (Marquez viết bằng tiếng Tây Ban Nha). Nó xứng đáng là khởi đầu cho sự trỗi dậy của cả nền văn học Mỹ La Tinh bị phủ sâu dưới lớp mây mù của chiến tranh và nổi loạn.

Quá trình "đi tìm Macondo" đã cho thấy hết những tính cách nổi bật nhất trong con người của Garcia Marquez: tự do, nhân bản, và biết chiến đấu đến cùng cho thứ mình tin tưởng. Marquez từng cho rằng, những tác phẩm trước đây của ông sở dĩ không làm ông thỏa mãn là vì nó chỉ là sản phẩm của bịa đặt, của trí tưởng tượng đơn thuần mà ra; chỉ khi viết "Trăm năm cô đơn", ông mới nhận ra rằng không thể viết được một kiệt tác khi chính mình không tin những điều mình viết ra là sự thật. Ông tin vào tác phẩm của mình, vào huyền thoại về ngôi làng Macondo do mình dựng lên, và tất nhiên là cả những ý nghĩa sâu xa ẩn chứa sau những cuộc đời phức tạp của con người nơi đây.

Văn học là sự cứu rỗi
Gabriel José García Márquez (6 tháng 3 năm 1928 - ) là một nhà văn người Colombia nổi tiếng. Ông còn là nhà báo và một người hoạt động chính trị.

Nổi tiếng với các tiểu thuyết Tình yêu thời thổ tả (El amor en los tiempos del cólera), Mùa thu của vị trưởng lão (El otoño del patriarca), Tướng quân giữa mê hồn trận (El general en su laberinto) và hơn cả là Trăm năm cô đơn (Cien años de soledad), García Márquez là một đại diện tiêu biểu của nền văn học Mỹ Latinh. Tên tuổi của ông gắn liền với chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. García Márquez được trao Giải Nobel Văn học năm 1982.

Gabriel Garcia Marquez ra đời và trưởng thành ở một trong những giai đoạn nóng bỏng và căng thẳng nhất trong lịch sử Colombia. Đó là thời điểm mà cuộc đấu tranh giữa những người thuộc phe Tự Do (Liberals) và phe Bảo Thủ diễn ra khốc liệt nhất.

Cuộc Chiến Tranh 1.000 Ngày (1899-1902), rồi đến Thời kì "bạo động" (Le violencia) diễn ra sau khi lãnh tụ đảng Tự Do Gaitan bị ám sát vào năm 1948, kéo dài tới những năm 1960, để lại dư âm là mạng sống của hàng trăm nghìn người Colombia và một đất nước bị chia rẽ sâu sắc.


Là một người thuộc phe Tự Do, hoàn cảnh lịch sử này chính là những tư liệu đặc sắc và chân thực nhất cho những tác phẩm của ông sau này.


Marquez theo học ngành luật tại trường Đại Học Quốc Gia Colombia vào năm 1947, nhưng cái mà ông thấy đam mê không phải là những điều luật và các vụ án khô khan, mà là chủ nghĩa Mác và những trang sách của Kafka.

 Sau cuộc bạo động ở thủ đô Bogota khi Gaitan bị ám sát, ông được chuyển đến học ở một trường phía bắc Colombia. Vào thời điểm đó, Marquez vẫn không thấy hứng thú gì với ngành luật mà cha mẹ đã định hướng cho mình, thay vào đó, ông tiếp tục niềm đam mê văn chương từ thuở bé của mình và bắt đầu đọc Ernest Hemingway, James Joyce, và tác gia được cho là có ảnh hưởng nhất đến ông William Faulkner.

Nhà báo Marquez

Với niềm đam mê viết lách, Marquez bắt đầu viết báo cho tờ El Universal, một tờ báo địa phương nhỏ; trước khi từ bỏ luôn ngành luật và theo đuổi sự nghiệp văn chương và báo chí với tờ El Heraldo và cuối cùng là tờ El Espectador.


Với trái tim nhiệt huyết của một thanh niên trẻ và luôn nhiệt tình tranh đấu, Marquez đã không ngần ngại lôi ra ánh sáng một sự việc xấu xa của chính phủ được che đậy bởi những hệ thống tuyên truyền dối trá. Đó là khi chiếc chiến hạm Caldas, chở "hàng cấm" cho chính phủ, do những sơ xuất điều hành mà đã bị chìm và làm chết gần như toàn bộ thủy thủ đoàn, chỉ có duy nhất một người còn sống sót. Ấy vậy mà qua hệ thống tuyên truyền của chính phủ độc tài, đó lại trở thành một hành động "anh hùng", vì "nhân dân"!


Tất nhiên sau vụ việc, Marquez đã lọt vào danh sách đen của chính phủ Colombia, và buộc phải trốn khỏi đất nước.


Ông sang châu Âu một vài năm và làm phóng viên biệt phái của El Espectador ở đó, trước khi tờ báo bị buộc đóng cửa bởi chính quyền độc tài Pinilla.  Sống trong tình trạng lay lắt về tài chính, ông vẫn tiếp tục cuộc sống ở Paris và sau đó là London, trước khi trở về Nam Mỹ.


Không thể trở lại Colombia, ông làm việc cho một số tờ báo ở Venezuela và Mexico, và còn làm phóng viên cho thông tấn xã của quốc gia Cuba non trẻ, mới ra đời sau cuộc cách mạng 1959.


Đó là một giai đoạn đáng nhớ trong cuộc đời ông, khi ông nhìn thấy ở Cuba "mặc dù có rất nhiều khó khăn và cả mâu thuẫn, quan điểm của tôi đó là một trật tự xã hội công bằng hơn, dân chủ hơn, và phù hợp hơn với nhu cầu của tất cả chúng ta".


Đây chính là dấu ấn cho thấy quan điểm chính trị nghiêng về phe cánh tả của Marquez, mặc dù ông cho rằng điều đó không hề ảnh hưởng tới tính hiện thực không thiên vị trong các tác phẩm của ông. Nhiều người cho rằng đây cũng là lý do cho sự bất hòa giữa ông và người bạn một thời Mario Vargas Llosa, nhà văn vừa mới nhận giải Nobel văn học vừa qua.

Hành trình cô đơn

"Nỗi sầu nhân thế" là một trong những chủ đề phổ biến nhất của văn chương nhân loại, và Garcia Marquez cũng không nằm ngoài dòng chảy đó.


Tuy vậy, khác với những tiếng thở dài về "ngẫm trời đất vô cùng, một mình tuôn giọt lệ" của các văn nhân Trung Hoa, sự lạc lõng giữa đầy những cạm bẫy trong xã hội của "Tấn trò đời" (Balzac), nỗi cô đơn trong những tác phẩm của Garcia Marquez là nỗi cô đơn riêng biệt chỉ có ở Nam Mỹ.


Trong những tác phẩm của ông, sự cô đơn xuất hiện ở mỗi người, mỗi gia đình, mỗi xã hội, và ở cả cộng đồng Nam Mỹ nghèo khó bị bỏ lại phía sau bởi thế giới phương Tây phát triển. Hình ảnh ẩn dụ điển hình nhất minh chứng cho điều này là một chi tiết trong "Trăm năm cô đơn": khi công ty khai thác chuối của Mỹ rời bỏ ngôi làng Macondo thì ngôi lành nhanh chóng trở nên kiệt quệ và rơi vào tình cảnh chết dần chết mòn.


Nỗi cô đơn trong các tác phẩm của Marquez đều có nguyên nhân chính: sự ích kỷ của con người và một xã hội không có tình yêu. Đây là hai đặc điểm gắn liền với nhau: khi con người ta chỉ nghĩ đến lợi ích của bản thân thì không thể có tình yêu cho kẻ khác, và rồi dần dần, tính ích kỷ sẽ trở nên đáng sợ hơn nữa, khi con người bóc lột lẫn nhau để tư lợi.


Không có sẻ chia bình đẳng thì cũng không có tình yêu, và khi đó, nỗi cô đơn sẽ tiếp tục là bóng ma ngự trị trên toàn xã hội rộng lớn.


Nhưng người đọc suốt gần nửa thế kỷ qua vẫn yêu quý những tác phẩm của Gabo (tên thân mật của Marquez) không phải chỉ vì nỗi cô đơn đó. Tính nhân bản của Marquez là ở chỗ, ông không để con người chết dần chết mòn trong nỗi cô đơn, mà luôn cố gắng tìm ra con đường để giải quyết chúng trong những tác phẩm của mình.


Phát biểu trong lễ trao giải Nobel của mình vào năm 1982, Marquez phát biểu rằng, con người cần phải xây dựng nên một "xã hội lý tưởng" (utopia), "nơi không ai được phép định đoạt số phận của người khác, nơi tình yêu sẽ cho thấy sự chân thành và hạnh phúc là có thể đạt được, và là nơi mà ngay cả một dòng họ bị vướng vào một lời nguyền trăm năm cô đơn, rồi sẽ cuối cùng có được cơ hội lần thứ hai để tồn tại trên thế giới này."

No comments:

Post a Comment