Sunday, April 28, 2013

Viết Cho 30-04: Ký Ức Buồn Ngày Ấy



Ngày ấy là ngày 30-04 của một năm cách đây đúng 38 năm.  Là ngày đã đi vào lịch sử Việt Nam như là một ngày trọng đại.  Là ngày đã làm thay đổi đời sống của hàng chục triệu người, theo chiều hướng tốt hơn và xấu hơn.  Là ngày có hàng chục triệu người vui, nhưng có hàng chục triệu người buồn.  Người vui biết rất rõ vì sao mình vui.  Họ ngỡ ngàng và choáng ngợp trước những gì được nhìn thấy, khác xa với những gì được biết.  Họ hát ca và reo hò.  Họ hát bài gì đó, như có một ai đó trong ngày vui đại thắng.  Người buồn không thể không biết vì sao mình buồn.  Họ lo lắng, hoang mang và sợ hãi.   Rồi thì, nỗi buồn ngày càng hiện rõ hơn hình dáng.  Những đau buồn, mất mát, tai ương, thảm họa cứ lần lượt kéo đến như gió vào nhà trống.


Ngày ấy, tôi không vui, cũng không buồn.  Không phải vì tôi vô cảm, mà chỉ là vì, tôi không biết gì cả. Còn quá nhỏ để biết và hiểu.  Tuy vậy, trong ký ức nhập nhòe và non trẻ, vẫn còn đậm lại những dấu ấn có thể lần mò được.  Càng về sau, tức là khi tôi càng lớn hơn, những dấu ấn càng rõ nét hơn.  Có nhiều dấu ấn tôi còn nhớ lại được.  Tựu trung, tất cả chỉ mang một tông màu sắc:  màu buồn, màu xám và màu đen.  Đó không phải là tông màu sắc tôi ưa thích.  Chẳng có đứa trẻ nào thích tông màu như thế.  Nó chỉ mở mắt ra nhìn cuộc đời thôi, và màu sắc cuộc đời in vào mắt nó như một phiên bản tái hiện sống động, không có sự can thiệp của ý thức.  Vì ý thức không dự phần nên có nhiều phần trong những dòng hồi tưởng này chỉ đơn thuần là hiện thực khách quan, tức là sự thật trinh nguyên và trần trụi.

Cân đo số ngày tôi sống trước và sau ngày ấy, cán cân lệch 89 độ.  Trong 1 độ nhỏ nhoi còn sót lại ấy, tất cả sao vui vẻ, rộn ràng và lôi cuốn thế.  Có lẽ là con nít mà.  Đối với con nít, cái gì cũng ngọt ngào như kẹo, cũng đẹp như giấy gói kẹo nhiều màu sắc.  Con nít chẳng làm gì khác ngoài việc nô giỡn suốt ngày.  Tôi cũng vậy.  Tôi vốn hiếu động trong ngôi nhà gạch hai tầng mà trong ký ức con trẻ của tôi, nó lớn như thể một cung điện nguy nga.  Có lần chạy nhảy trên lầu cao vào lúc về đêm, vô tình đầu tôi va mạnh vào cạnh cửa nứt toạc.  Tôi được đưa lập tức đến nhà ông y sĩ ở ngã tư của phố để khâu vết thương lại.  Chuyện nhớ lại cứ mập mờ như trong cơn mơ, nhưng không thể là mơ, vì vết thẹo vẫn còn ngay trên đỉnh đầu tôi.

Trong “cung điện” ấy, cái gì cũng có, từ gạo, nhớt, xăng, dầu, đến rượu, bia, nước ngọt, đến xà bông, bột ngọt, nhang, đèn, thuốc lá... Mà thứ nào cũng nhiều ơi là nhiều, đếm không thể hết được, mỗi thứ có một chỗ riêng của nó.  Lúa thì được chứa trong một cái vựa thật lớn, được cất riêng ở phía bên trái của nhà.  Xăng, dầu được đựng trong những thùng sắt lớn thì được để ở sân rộng ngoài trời ở phía bên phải.  Mỗi sáng, khi bốn cánh cửa xếp sắt ở gian bên trái và bên phải của ngôi nhà được mở ra, người ở đâu mà tràn vào như nước lũ, họ hăm hở cười nói, hết mua cái nọ, đến mua cái kia, râm ran cả lên.  Chiều chiều, tôi có thói quen mò mẫm đến tủ tiền để vọc chơi với những tờ giấy bạc thật đẹp có in hình mấy ông tướng.  Tiền ở đâu mà nhiều quá, đầy ắp, vậy mà lại bỏ không thế này, chẳng ai coi cả... Chắc ai cũng bận cả, công việc nhiều thế kia mà, làm không xuể.  Nhiều khi, thấy mọi người cười nói xôn xao, tôi cũng muốn dự phần, nhưng chẳng ai chú ý đến một đứa con nít con cả.

Thế rồi, ngày ấy đến.  Cụ thể đến như thế nào, làm sao tôi nhớ được.  Nhưng có những điều này thì còn lưu lại trong ký ức mù mờ của tôi vì chúng khác biệt với trước đây quá, như màu trắng với màu đen vậy.  Đầu tiên là hàng hóa dần dần biến đâu mất hết, nhà trống trơn.  Biến đi đâu, tôi không biết.  Chỉ biết là có mấy lần phải đếm đi, đếm lại hoài, rồi ghi ghi, chép chép.  Cứ ghi chép xong thì chúng biến mất.  Có lẽ vì có nhiều thứ phải ghi chép quá, mỏi tay, nên tống khứ được cái nào hay cái nấy.  Tôi thấy người nhà đem hàng trăm chai nước suối Vĩnh Hảo ra, khui nắp, rồi đổ vào những cái lu vốn được dành để chứa nước mưa.  Giống như là phi tang vậy.  Đây có lẽ là một trong những chi tiết hiếm hoi mà hình ảnh còn đọng lại khá rõ nét trong tôi. Còn nhỏ mà tôi đã biết tiếc hùi hụi.  Nước suối Vĩnh Hảo uống ngon lắm. 

Một hình ảnh khác kém rõ nét hơn, nhưng vẫn còn lần mò được là cái vựa lúa bên trái.  Ngày ấy là ngày cuối của tháng tư, có nghĩa là sau thu gom mùa lúa, nên nó đầy ắp.  Khi nó đầy ắp, tôi có cảm giác như cho cả huyện ăn chắc cũng không hết.  Vậy mà, ngày một, ngày hai nó biến đi đâu nhanh thiệt.  Người nhà có bán bớt không, tôi không biết.  Điều tôi biết và còn nhớ là, cứ vài ngày thì có mấy anh mặc áo xanh đến với một vài người khác, cùng với những chiếc xe đẩy.  Họ đẩy lúa đi từ từ.  Hình như họ mượn để cứu giúp mấy người nghèo khổ gì đó.  Tôi không chắc là họ mượn tổng cộng bao nhiêu, nhưng có điều tôi chắc là họ có mượn nhưng không có trả.  Mà kỳ lạ là cũng chẳng thấy người nhà ta thán gì, có lẽ là không biết tiếc của.

Không ai ta thán gì cả.  Im lặng?  Ừ, im lặng.  Kể từ ngày ấy, "cung điện" ấy không có nhiều tiếng nói nữa.  Một không khí âm u và cô tịch bao trùm.  Vựa lúa bên trái trống trơn.  Mảnh sân bên phải chỉ còn những thùng sắt móp méo, trống rỗng.  Những kệ hàng với tủ kính cao tới trần, quay mặt ra ngoài ngạo nghễ lúc trước, giờ được quay ngược trở lại vào trong tạo nên một khoảng tối rờn rợn khi bước vào nhà.  Hai cánh cửa xếp sắt phía gian bên phải của ngôi nhà vốn là nơi bán gạo, không còn mở ra nữa.  Mở nữa làm gì?  Khoảng trống bên ấy giờ để chứa những đồ vụn vặt, thỉnh thoảng mới có người trong nhà ghé qua.  Mà cũng lạ nhỉ!  Mới đấy thôi mà sao tất cả im lìm và trống trơn thế này.  Cả con người nữa.  Sao không ai làm gì hết thế nhỉ?  Chỉ trầm ngâm, rồi u uất thế này.  Mà sao không ai ra ngoài chơi nhỉ?  Ngoài kia, có nhiều người reo hò vui lắm:  như có ai đó, như có ai đó trong ngày vui đại thắng.

Rồi tôi đi học.  Đi học về, tôi cắm đầu vào học bài, học hết ngày này sang ngày khác, học luôn cả ngày chủ nhật.  Tôi bị nghiện học từ những ngày còn rất bé.  Mà không học thì làm gì nhỉ?  Chẳng có gì để vui chơi cả.  Ti vi không còn.  Máy hát đĩa không còn.  Không còn gì cả.  Tất cả đội nón ra đi để đổi gạo, đổi cơm.  Học nhiều nhưng ít nói.  Mà nói với ai nhỉ?  Chung quanh im lìm, cô tịch quá, trầm ngâm và u uất.  Những ánh đèn điện ngày trước không còn nữa, máy phát điện đã bán đi rồi, nên tôi phải học dưới ánh sáng ngọn đèn cốc tù mù trong suốt những ngày học phổ thông.  Mà tôi lại thức khuya thường, rồi đọc sách nhiều quá, nên ánh mắt mà tôi luôn tự hào là rất tinh ấy, sau này, khi tôi sang Mỹ và đi học lại, đã phải đeo kính sớm hơn người khác.

Mọi thứ trong ngôi nhà ấy biến đi, tôi chẳng có gì thấy tiếc.  Chỉ có một thứ mà tôi còn nhớ là tôi tiếc lắm.  Đó là mấy quyển sách.  Sách nhiều lắm.  "Sợ gì mà sợ dữ vậy?"  Tôi la lên, rồi dằn dỗi.  "Để đó đi, mai mốt tôi lớn tôi đọc."  Mặc tôi la lối, chúng vẫn được khiêng ra cái sân ở phía sau nhà và được chôn lấp đi vào trong một cái hố sâu, trong sự tức tưởi của tôi.  Tội nghiệp những quyển sách mới và đẹp ấy, bìa vở ai vẽ mà đẹp quá.   Dưới lòng đất sâu, cái gì còn phải rã tan nữa, sá chi là mấy trang giấy.  Tôi tức là tôi không có đủ quyền hạn để cứu tính mạng của chúng.  Chúng chết oan khiên và yểu mạng khi chưa có nhiều người cầm đến mân mê.   Không hiểu sao ngày ấy, tôi mê sách đến độ như thế, hơn tất cả mọi thứ trên đời.  Sau này, tôi lần hồi đi mướn lại hết những quyển sách ấy để coi.  Cũng có những người gan dạ, chôn đi rồi bới lại, rồi đem cho thuê.  Sách đã nhàu nát mà sao vẫn thấy hay ơi là hay.



Thế là, những thanh âm tiếng cười của sự nhộn nhịp trong ngôi nhà ấy chỉ thoáng qua trong ký ức tuổi thơ của tôi như một cuộn phim thật ngắn.  Còn lại là những ngày dài im lặng và vắng vẻ.  Những ánh đèn sáng choang mãi mãi trở thành một giấc mộng, dù vốn biết là nó đã từng có thật.  Còn lại là bóng tối bao trùm trong suốt những ngày tôi đi học.  Thi thoảng, về đêm, khi đi ngang qua một ngôi nhà có truyền hình, tôi dừng lại thật lâu, lén nhìn vào xem trộm trong chốc lát.  Vừa xem, vừa nhớ lại đã có những ngày ngắn ngủi mình muốn xem bao nhiêu tùy thích, xem lúc nào cũng được. Ai ai cũng bận rộn, chả ai có thì giờ đâu để ghé mắt vào cái màn ảnh nhỏ ấy.  Ngẫm lại, thấy mình oách thật, còn nhỏ xíu mà đã có toàn quyền với cái ti-vi 20 inch, có cửa đóng lại và có bốn chân thật cao.  Trước ngày ấy, cả cái chợ huyện ấy có lẽ chỉ có vài nhà có nó là cùng.  Nó mắc đã đành, nhưng còn thêm một nỗi nữa là, phải có cả máy phát điện nữa mới coi được, chứ nó có chạy không đâu.

Ngoài những giờ học, đêm về, trong bóng đêm tù mù, tôi có thói quen ôm cái radio nghe đọc truyện.  Tên truyện mà tôi còn nhớ là quyển Mùa Gió Chướng.  Nội dung thì tôi không còn nhớ gì, tôi chỉ nhớ tên truyện thôi vì nó là tên của một mùa gió rất thân quen.  Mùa gió chướng về đẹp lắm và hơi lạnh nữa.  Tôi nhớ nó nhiều là vì có những đêm ngủ không có chăn đắp, lạnh quá, không ngủ gì được.  Nghe gió thổi ngoài kia hì hù suốt cả đêm thâu mà thấy lạnh tới cả xương sườn.  Một chút ánh sáng lóe lên trong những ngày ấy có lẽ là những đêm tôi đi xem phim chiếu ngoài trời.  Chỉ đi xem phim thôi mà giống như ngày hội.  Có lẽ vì tất cả mọi sự vui chơi chỉ có thế.  Tôi mê phim thần thoại lắm, vì ở đó, tôi thấy mình được đắm mình trong một không gian hoàn toàn khác, không đen và tối như không gian tôi đang sống.  Ở đó, người ta có ước mơ và thường thì mọi ước mơ đều trở thành sự thật.  Mà cho dù có không trở thành sự thật đi nữa, như nàng tiên cá yêu vô vọng hoàng tử, thì ước mơ đó cũng vẫn đẹp vô cùng.

Tôi học giỏi.  "Giỏi sao mà giỏi quá chừng!".  Mấy đứa bạn hay nói với tôi như vậy, điệu bộ có vẻ thán phục.  Mấy thầy cô cũng chừng có vẻ phục phục.  Tôi chẳng thấy tự hào chút nào, vì tôi luôn xem điều đó là điều đương nhiên.  Mà đã là chuyện đương nhiên thì tự hào cái nỗi gì.  Có lẽ là vì tôi học giỏi nên có thầy cô đề nghị kết nạp tôi vào Đoàn.  Chuyện chẳng đi tới đâu vì tôi thờ ơ quá.  Muốn tôi học cái gì cũng được.  Muốn tôi viết cái gì thì tôi viết theo.  Dạy sao tôi nghe vậy, vì có muốn khác cũng không được.  Đi học, tôi sợ nhất là điểm thấp.  Mà không phải, tôi sợ nhất là điểm 9, vì thường thì tôi luôn phải giành được điểm 10 tôi mới vừa ý, ngoại trừ môn Văn.  Sợ như vậy nên đời nào tôi dám nói sai một ý nào mà tôi đã được dạy.  Tôi không tham gia vào Đoàn vì nó chẳng ảnh hưởng gì đến điểm của tôi cả.  Mà với tôi, chỉ có điểm mới quan trọng thôi.  Vả lại, có thêm điều này nữa làm tôi thấy có chút áy náy.  Ở nhà, mỗi khi đọc sách, tôi luôn có cảm giác một cái nhìn u uất nào đó hướng về sách vở trên tay tôi.  Tôi luôn cảm thấy mình chột dạ và nói với chính mình:  Hàng hóa biến đi đâu hết, tôi có lỗi gì đâu?  Cả đống tiền cột chặt thành từng bó, để rồi khi trở về chỉ còn là vài ba tờ lẽ, cũng chẳng phải lỗi của tôi?  Xin đừng trút vào tôi cái nhìn uất hờn ấy.  Tôi chỉ học thôi mà, tôi có biết gì đâu.

Thực ra, sự biến đổi trong căn nhà nơi tôi ở không hẳn là quá tồi tệ khi so với một số người thân.  So kỹ hơn, có nhiều điều may mắn là khác, vì vẫn còn nhà để ở và không ai "được" đi "học tập" dài hạn cả, chỉ đôi ba ngày thôi.  Ông cậu ruột của tôi không biết làm chức vụ gì mà tưởng là đi "học tập" một vài bữa, nhưng hóa ra lại đến một vài năm.  Mấy đứa con trở nên lạc loài, côi cút, còn bà mợ phải lo thăm nuôi dài hạn đến phờ người.  Nhớ lại gia cảnh ông ta lúc đó mới thấy là có cố đến mấy cũng không thể nào có lòng dạ để cùng tham gia "vui đại thắng" được.  Sau này, khi ông ta về, không biết nghĩ sao, ông ta gom hết vàng bạc hì hục tìm đường cho mấy đứa con.  Cũng lận đận vài ba chuyến, cuối cùng, cả ba đứa cũng lần lượt sang định cư ở Mỹ cả.  Số nhà ông tuy "tiền hung", nhưng "hậu" như vậy, xem ra cũng "kiết" lắm rồi, chỉ tội là ông không sống lâu để hưởng đức từ những đứa con, không biết là có do ảnh hưởng gì từ khoảng thời gian đi "học tập" không.

Chuyện của nhà bà cô ở xa thì có vẻ như căng thẳng hơn nhiều lắm.  Nhà cửa bị tịch thu và cả nhà phải đi vùng kinh tế mới.  Tội lỗi của gia đình bà ta là của cải nhiều quá, làm ăn, buôn bán lớn quá.  So với nhà mình, tôi cũng không chắc là ai lớn hơn ai.  Chính vì vậy, mà tôi mới có ý nghĩ là nhà mình may mắn hơn nhiều khi không phải trải qua thảm cảnh ấy.  Có hồi tưởng này làm tôi có chút nhói lòng.  Đó là về thằng con nhỏ của bà cô, tức là, đứa em cô cậu của tôi.  Nó nhỏ hơn tôi một vài tuổi.  Trong thời gian cả nhà đi vùng kinh tế mới, nó được gửi xuống để ở chung với gia đình tôi.  Có một buổi chiều tối chạng vạng, tôi lên lầu thì bắt gặp nó ngồi một mình trong bóng tối, khóc sợ hãi.  Căn lầu rộng lắm, thường vắng tanh không có ai, lại chưa thắp đèn nên không khí đáng sợ thật.  Tôi chạy đến ôm chầm lấy nó mà thấy tội nó vô bờ.  Nó lẻ loi và cô quạnh quá, mới chừng ấy tuổi đầu mà sống xa mẹ, xa cha.  Năm sau, có lệnh nhà nước cho di tản bán chính thức, tức là đóng vàng để được vượt biên hợp pháp, giá cả đâu khoảng bảy cây vàng một đầu người.   Cả nhà nó có sáu, bảy người, bị tịch thu hết tài sản rồi, vậy mà, không biết bằng cách nào vẫn kiếm đủ số vàng cao chất ngất để được đi.  Từ đó đến nay, mấy chục năm rồi, cả nhà nó sống bên Úc luôn đến giờ.  

Thế là, lần lượt hết người này đến người khác, ai cũng đi.  Ngày ấy, có câu nói này, nhớ lại vừa thấy buồn cười, vừa thấy đau xót:  Đến cây cột đèn mà nó đi được thì nó cũng đi.  Câu nói đó hình như ai cũng biết.  Đến hôm nay, vẫn còn nhiều người nhắc lại.  Mấy đứa em cô dì ở Sài Gòn, vì ở xa nên tôi ít gặp.  Gia đình tụi nó không chuyện gì, vậy mà tụi nó cũng đi.  Có lẽ vì thấy cột đèn cũng đi, nên tụi nó không chịu ở lại chăng?  Tôi chỉ nghe được là tụi nó đi theo ngả Hồng Kông, còn có đến nơi được hay không và hiện giờ như thế nào thì tôi không biết.  Đi theo ngả Hồng Kông thì rẻ tiền hơn và dễ dàng hơn nhiều lắm nên hầu hết dân miền Bắc thường đi theo ngả ấy.  Có điều là, vì dễ dàng như vậy, nên việc định cư khó khăn hơn vô cùng.  Lượng người bị trả về sau này rất lớn.  

Tôi có lẽ là một trong những người đi sau cùng.  Hầu hết người di tản đều tin rằng chuyện đi đứng là có số, có má.  Có nghĩa là cái số đi được thì mới đi được, bằng không, có thử đến hàng trăm lần thì giỏi lắm chỉ ra đến được hải phận quốc tế là cùng.  Rồi thì trở về nằm tù và chờ được thăm nuôi.  Có người 7 lần, 10 lần như thế là chuyện thường.  Đó là chỉ nói đến chuyện đi, còn chuyện đến lại là chuyện khác.  Ra khỏi hải phận quốc tế không có nghĩa là đương nhiên đến.  Có thể đến bến bờ bên kia.  Có thể không.  Hoặc nằm sâu dưới lòng đại dương.  Hoặc bị hải tặc bắt và lưu lạc đâu đó.  Có thống kê nói là tổng cộng có cả thảy hơn một triệu rưỡi người di tản, trong đó, có một phần ba, thân xác nằm lại dưới lòng biển.  Trong số nửa triệu linh hồn oan khuất ấy, có vài linh hồn tôi biết. 

Nói theo dân di tản, tôi là người có số đi.  Tuy chậm nhưng mà chắc.  Chỉ một lần ra khơi, tôi chẳng còn quay lại nữa.  Khi đi, bão tố nổi lên đùng đùng, thuyền tan, tàu rã, nhưng số chưa tới làm sao chết được.  Sắp chết tới nơi thì lập tức có tàu xuất hiện để cứu nạn.  Chuyện đời là vậy.  Chưa tới số, chuyện chết cũng chẳng phải là điều dễ dàng gì.  Mọi chuyện cứ y như là có phép lạ, người ngoài đôi khi nghe, thấy khó tin.  Chuyến đi trót lọt và dễ dàng như có phép lạ ấy là điều mà tôi luôn cảm ơn cuộc đời và cảm ơn định mệnh.   Đôi khi, tôi tự hỏi là điều gì xảy ra nếu tôi vẫn ở lại nhỉ.  Ký ức buồn đen ngày ấy làm tôi chợt cảm thấy rùng mình mỗi khi đặt cho mình câu hỏi ấy.  Tôi nhận thức rất rõ và rất sớm là tôi chẳng phải là người được sinh ra để sống trong một không gian như thế.  Tôi không thể sống và không thể tồn tại.  Trước sau gì rồi tôi cũng héo rũ và quắt queo mà chết, như cái cây không được tưới nước.  Điều đó chắc chắn lắm.  Đi và sống.  Hay ở lại và… Sự đối nghịch rõ ràng và hiển nhiên đến nỗi tôi không cần phải viết ra từ cuối.  Đó là lý do vì sao khi viết những dòng hồi tưởng này, tôi thực lòng muốn cám ơn cuộc đời, và cám ơn định mệnh một lần nữa về sự hiện diện của tôi ngày hôm nay trên cõi đời này. 

Ký ức ngày xưa đã khép chặt lại cùng với căn nhà ấy, nơi tôi đã sống những ngày không ánh sáng.  Từ ngày sang Mỹ đến nay cũng đã lâu lắm rồi, tôi chưa một lần trở về nơi ấy để đối diện lại bóng tối của những năm nào.  Có lẽ tôi muốn quá khứ ngủ yên. 

28/04/2013
Jeffrey Thai 

No comments:

Post a Comment