Saturday, April 5, 2014

(Audio) Hồn Bướm Mơ Tiên (1933) - Khái Hưng







HỒN BƯỚM MƠ TIÊN
Tác phẩm đầu tay của Khái Hưng

Khái Hưng

Hồn Bướm Mơ Tiên là tác phẩm đầu tay của Khái Hưng viết năm 1933, và cũng là tác phẩm đầu tiên của Tự Lực Văn Đoàn. Mặc dù chỉ là truyện ngắn vỏn vẹn chừng một trăm trang giấy, nhưng nó lại là tác phẩm nổi tiếng nhất của Khái Hưng, được nhiều người say mê, hâm mộ và có lẽ là tác phẩm thành công nhất của ông. Một truyện tình lãng mạn tuyệt vời, bay bướm y như các truyện ngắn của Ivan Tourgueniev, giá trị nghệ thuật rất cao, tâm lý nhân vật sâu sắc thể hiện sự tranh đấu giằng co giữa tình yêu và lòng mộ đạo ở nội tâm một người đệ tử xuất gia, nó cũng là một trong những tác phẩm giá trị nhất của nền văn học cận đại và hiện đại nước nhà.

Theo dư luận chung của độc giả và dư luận phê bình, Khái Hưng đã được coi như một trong những tác giả lớn nhất của nền chương Việt Nam, có người cho ông là cột trụ của Tự Lực Văn Đoàn. Ông tên thật là Trần Khánh Dư, sinh năm 1896 tại Cổ Am, Vĩnh Bảo Hải Dương, thuộc thành phần gia đình quan lại, cha là tuần phủ Phú Thọ, bố vợ làTổng đốc Bắc Ninh, em ruột ông Trần tiêu, cũng là văn sĩ. Khái Hưng theo tây học trường Albert Sarraut, đậu tú tài ban cổ điển, ông cũng thâm Hán nho. Khái Hưng đã cùng Nhất Linh và Hoàng Đạo thành lập Tự Lực Văn Đoàn, mở một kỷ nguyên mới cho nền văn học nước nhà. Ông tham gia cách mạng, là đảng viên tích cực của Việt Nam Quốc Dân Đảng, bị Việt Minh thủ tiêu 1947 tại bến đò Cựa Gà, làng Ngọc Cục, Nam định .

Các tác phẩm tiêu biểu gồm: Hồn Bướm Mơ Tiên (1933), Nửa Chừng Xuân (1934), Trống Mái (1936), Tiêu Sơn Tráng Sĩ (viết 1940, theo Vũ Ngọc Phan) . . .

Hồn Bướm Mơ Tiên là tác phẩm đầu tay của Khái Hưng nhưng nó thể hiện một bút pháp già dặn của một tác giả lành nghề, có phần vững vàng hơn so với Nửa Chừng Xuân. Xin sơ lược cốt truyện.

Tại chùa Long Giáng, miền Trung du Bắc Việt, Ngọc một thanh niên Tây học về thăm bác là sư cụ trụ trì chùa. Chú tiểu Lan đẹp giai, thông minh dễ thương trở thành bạn thân của Ngọc, chàng hoài nghi cho rằng Lan là gái giả trai vì giọng nói nước da của chú có vẻ giống con gái nhiều hơn .

Ngọc ở chùa đã mười hôm và nguyện trong mười ngày phải tìm ra sự thật. Chàng được biết Lan ở nhà kho, tối ngủ cài then kỹ lưỡng càng sinh nghi. Chàng theo dõi Lan một buổi tối nọ ở chùa trên khi chú cầu khấn Đức Phật phù hộ cho chú đủ nghị lực xa lánh cõi trầm luân, chàng biết chú mặc cảm tội lỗi vì đã có cảm tình với mình, Ngọc hay bịa chuyện nói bóng nói gió với chú tiểu để dò xét chú, nào chàng có người yêu bỏ đi tu nên cứ đi các chùa để tìm cô ấy. Ngọc và Lan dần dần có thân tình vì gần nhau, chàng bèn viết một bức thư tỏ lộ lòng mình rồi lên vườn sắn tìm Lan, Ngọc chưa kịp đưa thư thì Lan vội về chùa, chàng tức quá xé bức thư làm bốn, chàng quay về chùa thì Lan quay lại vườn sắn vì bỏ quên con dao, Lan chắp bốn mảnh thư lại đọc và hiểu, Ngọc vẫn chưa biết Lan đã đọc thư mình .

Một hôm sư cụ sai chú tiểu Lan mang bánh sang tạ sư ông chùa Long Vân, Ngọc xin đi cùng.Tới chùa, hai người hai người ăn cơm nước do sư ông đãi xong ra ngoài ánh trăng ngồi nói chuyện, Ngọc cầm tay Lan, chú dựt tay chạy, hai bên lôi kéo nhau, áo Lan tuột cúc trễ vạt ra, Ngọc thấy ngực Lan quấn vải nâu.

Tối ấy Lan trốn đi vì Ngọc đã biết mình là gái, Ngọc đuổi theo hứa sẽ giữ bí mật và sẽ bỏ về Hà Nội, chàng cho biết đã yêu Lan từ lâu, Lan nói phải dừng lại ngay.

Hôm sau trở về chùa Long Giáng, Lan được biết vào lúc chiều tối, Ngọc đã về Hà Nội từ sáng, để lại mảnh giấy từ biệt. Lan khóc nhưng tự trấn tĩnh và dẹp bỏ được những cám dỗ nhỏ nhen nơi dương thế.

Sáu tháng trôi qua, Lan trải qua sự buồn nhớ, mừng lo, dần dần ngày đêm vui đạo Phật lòng cũng nguôi đi. Có lần Ngọc đi xe đạp đến gần chùa, nghỉ ở quán rồi lại đi, Lan cho là trông lầm mà cũng vẫn cho đó là thực và mong nó là thực .

Rôi Ngọc trở lại thăm Lan, Lan trách Ngọc quên lời thề không trở lại nữa, Ngọc cho biết đến thăm Lan lần cuối và chào từ biệt, Lan khóc ràn rụa nước mắt, Ngọc muốn tiến tới, Lan đẩy ra, cô chỉ muốn có một giới hạn . Ngọc hứa chỉ yêu thương trong tâm hồn và lâu lâu khi chàng được nghỉ học sẽ về chùa thăm Lan.

Mặc dù là tác phẩm đầu tay, Hồn Bướm Mơ Tiên cho thấy một bút pháp vững vàng hơn các tác phẩm sau này của Khái Hưng. Đây là một tác phẩm cân đối và hoàn chỉnh, bố cục rõ ràng, hành văn lưu loát và sáng sủa, lối thuật chuyện của ông lôi cuốn và duyên dáng xây dựng bằng những tình tiết hết sức bất ngờ tạo nhiều hứng thú cho người thưởng thức.

Độc giả như lạc vào một thế giới xa lạ, trong không khí yên tĩnh của danh lam thắng cảnh miền Bắc, với cảnh chùa chiền cổ kính qua nét bút miêu tả của Khái Hưng:

. . “Mấy nóc nhà rêu mốc chen lẫn trong đám cây rậm rạp, bốn góc, bốn gác chuông vượt lên trên từng lá xanh um.
Phía Tây, sau dẫy đồi cỏ biếc, sắc trời đỏ ửng lấp loáng qua các khe đám lá xanh đen. Mái chùa rêu phong đã lẫn cùng màu đất, cùng cây, cùng cỏ. Khoảnh khắc mấy bức tường và mấy cái cột gạch quét vôi chỉ còn lờ mờ in hình trong cái cảnh nhuộm đồng một màu tím thẫm .

Trong làn không khí yên tĩnh êm đềm, tiếng chuông thong thả ngân nga . . . như đem mùi thiền làm tăng vẻ đẹp của cảnh thiên nhiên. Lá cây rung động, ngọn khói thướt tha, bông lúa sột soạt như cảm tiếng gọi của Mâu Ni muốn theo về nơi hư không tịch mịch ”

Độc giả cũng được nghe sự tích lý thú về ngôi chùa: Đời Lý, Văn Khôi công chúa, nhan sắc diễm lệ, bỏ trốn cung điện đến chùa xin thụ pháp . . nhà vua đón về, công chúa không nghe, Ngài cho phóng hỏa đốt chùa. Bỗng con rồng vàng phun nước tắt ngay nên gọi là chùa Long Giáng . . Độc giả cũng được dự những ngày lễ lạc, làm chay cho vong linh người quá cố, lễ chạy đàn. . . tiếng kinh du dương, mùi trầm hương ngào ngạt, tiếng chuông chùa ngân nga . . . như đưa ta vào một thế giới mộng ảo thần tiên.

Tác phẩm mở đầu bằng hài kịch và kết thúc bằng bi kịch, ở phần đầu lối thuật truyện duyên dáng trào phúng khiến cho độc giả chăm chú theo dõi, đôi khi phải bật cười vì những đoạn dí dỏm ngộ nghĩnh. Khi mới vào truyện, tác giả cho thấy cảnh sinh hoạt ở thôn quê thật vui tươi sống động :

“ Một cô thấy người lữ khách thì trỏ bảo bạn :
- Chị em ôi , nhà tôi đã về kia kìa . . .
Mọi người cười rộ, một cô hát ví:
Hỡi anh đi đường cái quan ,
Dừng chân đứng lại em than vài lời.
Đi đâu vội mấy anh ôi,
Công việc đã có chị tôi ở nhà.

Các cô vỗ tay cười rũ rượi. Lữ khách như đã biết tiếng con gái ở vùng Bắc là đáo để, cắm đầu rảo bước trên đường không ngoảnh cổ lại. Thì cô thì cô hát ví lại đứng dậy như muốn chạy đuổi theo mà gọi .

- Này anh, anh đưa va li đây em xách hộ cho. Khốn nạn! Thương hại nhà tôi đi đường mệt nhọc, mồ hôi mồ kê thế kia kìa !

Lữ khách đã đi xa, còn nghe văng vẳng sau lưng câu hát ghẹo:

‘’Anh về kẻo tối anh ơi !
Kẻo bác mẹ mắng rằng em dỗ giành! ”

Ngọc vừa đến chùa một hôm đã có chiều thân mật với chú tiểu Lan, chàng ngờ chú là gái bèn bịa ra một truyện, chàng chiêm bao thấy đi với một nhà sư trẻ trên con đường quanh co, cây cối um tùm, một lúc tới cảnh bồng lai . . thế rồi nhà sư trẻ biến thành một giai nhân, người con gái ấy lại là chú Lan. Lan cũng nhanh trí lắm, chú bèn lấy sự tích nhà Phật ra thuyết giảng để đánh lạc hướng chàng nào kẻ đã xuất gia thì gái hay trai cũng vậy, đối với đàn bà sư tổ dạy phải lánh xa để khỏi mắc vào lưới dục tình.

Ngọc ở chùa mười hôm quyết điều tra bằng được sự bí mật ấy để xem chú tiểu Lan là trai hay gái. Có lần Ngọc đang vẽ tranh, Lan lại coi, chàng bèn nhờ chú làm mẫu vẽ, chàng vẽ chú mặc áo tứ thân con gái, chú tức quá phản đối:

- Ông chế riễu tôi, ông coi tôi là một người con gái!
Ngọc cũng nhanh trí lắm bèn giảng giải vòng vo bức tranh chàng vẽ công chúa Văn Khôi tới chùa, tựa gốc cây nhìn về Thăng Long . . . cuộc đấu trí của hai người thông minh khôn ngoan tạo lên một sắc thái hài hước vui nhộn, lôi cuốn linh động.

Có lần chú Lan lên gác chuông gặp con rắn sợ hết hồn chạy xuống, Ngọc lấy gậy lên đánh, chú cản lại :

- Thôi ông đừng đánh nó phải tội, ở nhà chùa không được sát sinh .

Ngọc hỏi :

- Thế nó cắn mình nó có phải tội không ?

Câu hỏi của Ngọc vừa vui tươi lại đầy ý nghĩa.

Một buổi tối nọ, Ngọc theo dõi Lan, thấy chú lên nhà chùa trên cầu khấn Phật Tổ phù hộ cho chú đủ nghị lực xa chốn trầm luân. Về sau Lan biết truyện này bèn bịa ra một truyện để đánh lạc hướng:

“. . Có một thiếu nữ . . nhan sắc . . cô chòng ghẹo tôi . . viết thư gửi tôi . . vì thế đêm khuya tôi thường lên chùa cầu nguyện Đức Thích Ca phù hộ . . cho cô ta tỉnh ngộ buông tha kẻ tu hành này .’’

Đôi bạn trẻ thông minh, lanh lợi, mạt cưa mướp đắng gặp nhau tìm đủ mánh lới để dò xét và đánh lạc hướng nhau : Ngọc thì ra sức khám phá bí mật, Lan thì nghĩ đủ thứ truyện để hóa giải. Ngọc sành tâm lý lắm, nhân một buổi tối nhà chùa làm lễ chạy đàn, chàng vờ thân mật trò truyện với một cô gái quê để chọc tức chú Lan, Lan tỏ vẻ ghen tị mắng chàng :

“-Tính ông trai lơ lắm . . nhỡ cụ biết cụ quở chết !

Ngọc thấy Lan ghen tức, chàng đoán biết chú là gái giả trai rồi ”

Một hôm sư cụ sai chú Lan sang chùa Long Vân để đem quà tạ ơn sư ông bên ấy, Ngọc đi theo, tối ấy tại chùa Long Vân

Ngọc bèn vờ vĩnh rủ chú Lan ngủ cùng giường:

“_ Đi có hai người ở nôi xa lạ, nằm cả một giường nói chuyện cho vui, ngủ ở ngoài muỗi nó tha đi!

- Thưa ông không tiện, sư ông biết ngài quở chết ”

Phần hài kịch vui tươi dí dỏm chừng nào, sang phần bi kịch nó thể hiện nổi khổ đau cay đắng của con người chừng nấy. Phần hài kịch chấm dứt tác giả chuyển sang bi kịch thật là đột ngột, phũ phàng y như một bản nhạc Đại hoà tấu Symphony đang nhẹ nhàng thanh thoát, bỗng kèn trống ầm ầm nổi lên hoặc y như cảnh trời yên bể lặng bỗng gặp phong ba bão táp nổi dậy ào ào.

Trong cái đêm sáng trăng ấy, Ngọc cầm tay Lan, hai người sô kéo nhau, áo dài áo ngắn của Lan tuột cả ra, Ngọc kêu rú lên thấy ngực Lan quấn vải nâu và biết đích xác cô là gái giả trai.

Tối ấy Lan sợ quá bỏ trốn, Ngọc đuổi theo tới một ngọn đồi, Lan hoảng hốt ngã xuống gốc thông ngất xỉu, Ngọc đỡ Lan dậy hứa ngày mai sẽ từ biệt cô về Hà Nội và giữ bí mật mọi chuyện :

“ Lan lúc ấy đã tỉnh hẳn, ngồi dậy lau nước mắt mà rằng:

-Vâng tôi là gái. Tôi biết thế nào cũng chẳng giấu nổi ông. nhưng còn câu chuyện vì sao tôi phải cải trang, thì tôi chưa thể lộ tâm can cùng ông được, chỉ xin ông buông tha kẻ tu hành này, kẻ tu hành khốn khổ này ra mà thôi ”.

Hài kịch (comedy) ở phần đầu thật là có duyên, dí dỏm và bi kịch (drama) ở phần cuối khiến truyện trở nên sầu thảm và Lan đã thành một nhân vật đáng thương. Cô thuộc gia đình giòng giõi, thông minh, thuở nhỏ theo học chữ nho. Ông thầy là người mộ đạo thường giảng giáo lý nhà Phật cho cô, cô yêu mến cái đạo lý dịu dàng êm ái ấy, cha mẹ mất Lan ở với chú, chú muốn ép gả cô vào nơi phú quí, linh hồn cô đã tiêm nhiễm những tư tưởng cao thượng cho đó là chuyện nhỏ nhen. Lan đã thề cùng mẹ khi bà hấp hối, cô bỏ nhà trốn đến qui y thụ giới tại chùa Long Giáng, cô đã vờ bỏ lại nhiều tang vật trên bờ sông, người ta tưởng cô đã tự vẫn.

Ở phần này người ta cảm thương cho cho Lan vì con đường xuất gia thoát tục của cô đang hanh thông bỗng nhiên gặp nhiều trắc trở.

“ Nương náu cửa từ bi hơn hai năm nay, được sư tổ quí mến truyền giáo đạo Phật, giốc lòng ngày đêm dùi mài kinh kệ, đã tưởng dứt bỏ được trần duyên ai ngờ . . . ”

Cho tới khi kết thúc truyện, cô vẫn là một người chân tu đáng kính, mặc dù lòng trần chưa rũ sạch, rồi một mối tình đầu chớm nở, Lan vẫn còn đủ nghị lực để đẩy lui những sự cám dỗ ngọt ngào và vẫn dấn thân trên con đường xuất gia thoát tục.

Hồn Bướm Mơ Tiên, tác phẩm đầu tay của Khái Hưng, nhưng kỹ thuật mô tả tâm lý nhân vật ở đây có lẽ lại là sâu sắc nhất so với toàn bộ văn nghiệp của ông, có thể coi như một trong những tác phẩmsâu sắc nhất của nền văn chương Việt Nam, nó cũng gần giống như kỹ thuật trong các tác phẩm của Dostoievsky, một nhà văn hào cổ điển Nga. Dostoievsky là người đi tiên phong trong kỹ thuật mô tả tâm lý nhân vật tường tận, ông đã ảnh hưởng rất nhiều tới nền văn học mới trên văn đàn thế giới và có lẽ ông cũng đã ảnh hưởng đến Khái Hưng .
Ở Dostoievsky luận đề chính trong các tác phẩm là sự tranh đấu giữa thiện và ác ở nội tâm con người để làm chủ tâm hồn, ở Hồn Bướm Mơ Tiên là sự tranh đấu giằng co giữa tình yêu và chân lý, giữa bụi trần và lòng mộ đạo ở tâm hồn một cô gái trẻ đẹp đang trên đường tu hành thoát tục. Khi Ngọc đã ở chùa được hơn mười ngày, chàng và chú Lan ngày một gần gũi thân thiết. Thế rôi một mối tình chớm nở ở trái tim cô gái giả trai này, cô ý thức được đó là một điều tội lỗi và đã lên bàn thờ Phật khấn nguyện :

“. . Phù hộ cho đệ tử . . có đủ nghị lực . . xa lánh trầm luân . . đệ tử đã giốc lòng tin mộ đạo, không ngờ nay mới biết lòng trần tục vẫn chưa giũ sạch. Nhưng đệ tử xin thề trước Đức Từ Bi . .”

Trong đêm trăng lịch sử ấy, Ngọc đã biết cái sự thực phũ phàng, chàng tượng trưng cho sự cám dỗ, chàng nói đã yêu Lan từ lúc mới gặp nhau, nào cô thông minh, xinh đẹp, chàng muốn hy sinh hết mọi sự, đến cả hạnh phúc, cả tấm ái tình tuyệt vọng của chàng.

. . “ Tôi sung sướng quá. . Hạnh phúc của tôi. . nếu mục đích đời người là tìm hạnh phúc thì tôi đã tới mục đích rồi ”

Lan đã ngăn chặn Ngọc như sau:

“- Nhưng đi tới rồi nên đứng lại , chớ bước thêm một bước nữa ”
Ngọc tưởng người đẹp đã siêu lòng, nhưng không, cô đẩy lui cám dỗ ngay :

“-Mà nếu Đức Thích Ca xuất thế để tìm hạnh phúc cho nhân loại và đưa linh hồn chúng sinh tới cõi Niết Bàn, thì tôi xin dừng chân ở gốc cây thông này, chứ chẳng muốn đi tới Nát Bàn làm gì!

Lan đứng phắt dậy, nghiêm trang đáp lại .

-Người quân tử phải giữ lời, nhất là lời hứa ấy là một lời thề.

. . . Hai người nhìn nhau , bóng trăng khuyết rọi đầu cành . . . giòng sông thấp thoáng dưới bóng trăng như một giải lụa trắng . . . rồi lẫn với sương mù . . Lan giật mình lẩm bẩm :

-Nếu gặp nhau hai năm trước . .
-Và bây giờ muộn quá hay sao?

-Muộn quá rồi . Vì tôi đã thề trước Phật Tổ, thì đến chết tôi cũng giữ lời thề. Đời còn chả tiếc, tiếc gì một sự cỏn con, nhỏ nhen.
- Ái tình mà . . chú cho là một sự nhỏ nhen?
-Nhỏ nhen nếu đem sánh với lòng bác ái. Vì lòng bác ái mà Phật Tổ xa vợ, xa con, xa cha, xa mẹ lang thang khắp bốn phương giời để tìm phương giải thoát cho nhân loại. Vậy xin ông cũng vì bác ái mà xóa bỏ trong lòng những tên chú Lan, cô Thi, như thế thì ông sẽ cứu sống được một linh hồn. Trên đời chỉ có lòng bác ái là đáng kể ’’

Như ta đã thấy, trước sự cám dỗ ghê gớm ấy cô vẫn đầy nghị lực, can đảm xua đuổi nó đi để không bị rơi vào cái tròng tội lỗi, cô nói rằng đã trót thề trước Phật Tổ và giữ lời thề ấy đến chết thì đủ thấy cái ý chí của người nữ nhi nó mạnh mẽ là nhường nào.

Khi trở về chùa Long Giáng cô vẫn khấn nguyện để Đấng Từ Bi cứu vớt mình thoát cảnh trầm luân .

. “.Lan đăm đăm nhìn trời, lâm râm khấn cùng Phật Tổ xin Ngài xuống cứu vớt tấm linh hồn sắp đắm đuối. Bỗng có tiếng động bên mình . . . Con vành khuyên đương lách tách nhảy trên cành lá rậm. Lan mỉm cười ngắm nghía con chim xinh xắn mướt lông rồi giơ bàn tay ra vẫy. con chim kinh sợ vụt bay ”

Tất cả những cám dỗ, những lời đường mật của chàng sinh viên trẻ, của mối tình chớm nở làhiện thân của thử thách đối vối người xuất gia thoát tục như Lan. Cô đã vượt qua được chặng đường thử thách nhưng vẫn run sợ vì nó có thể phá hoại hoàn toàn con đường học đạo của mình :
“ Lan liếc mắt ngắm phong cảnh quanh mình, lòng hoài nghi man mác đến cả cỏ cây mây nước. Cúi nhìn giòng nước bạc lấp lánh dưới chân đồi quanh co uốn khúc, rì rì lướt giữa dọc cát vàng. Trong cảnh êm đềm ấy biết đâu không ẩn núp những loài rắn độc hại người. Cho chí đám mây dịu dàng theo chiều gió thổi, làn khói lờ đờ bay, lẫn lá xanh, biết đâu không trở nên cái sức mạnh phá phách của con tạo vô tình . . ”

Là người con gái đã xuất gia nhưng cô cũng vẫn dạt dào tình cảm, khi biết tin Ngọc về Hà Nội, Lan hốt hoảng :

“_Về lúc nào?. . sao lại về HàNội?. .Về Hà Nội rồi à?”

Ngọc để lại bức thư vắn tắt:
“Giữ lời hứa tối hôm qua, tôi xin kính chào chú ở lại tu hành cho thành chánh quả. . . chú còn tưởng nhớ tới tôi là người bạn khốn khổ này, thì xin chú cầu nguyện cho linh hồn tôi chóng được lên cõi Nát Bàn ”
Đọc thư xong mấy lần, Lan ngồi phịch xuống giường lấy tay bưng mặt khóc nức nở không ra tiếng, nỗi sầu khổ trong lòng theo hai hàng lệ tuôn rơi. . . đó là dấu hiệu của mối tình đầu chớm nở, nhưng ngay khi ấy lòng tin mộ đạo lại nhắc nhở cho cô biết rằng mình đã là kẻ xuất gia thoát tục, Lan như tỉnh cơn mơ :

“ Thôi ta điên mất rồi chẳng lẽ. . .Lan đứng phắt dậy, tắt đèn rồi lau nước mắt quả quyết đi lên chùa trên, vừa đi vừa lẩm bẩm: Quên! phải quên ! Lời thề trước linh hồn mẹ ta hãy còn nhớ đinh ninh trong trí. Đó là cái bùa để trừ bỏ những sự cám dỗ của cái tình nhỏ nhen ở nơi dương thế ”

Cô gái mặc cảm tội lỗi đang ra sức sua đuổi cám dỗ, người ta thấy cô vừa đáng thương, vừa đáng kính :

“ Lan lẩm bẩm “ta rất có tội với đức Phật tổ ”

Lúc ấy Lan thoáng ngửi thấy mùi trầm . Thì ra lên tới chùa trên từ bao giờ mà Lan không biết vẫn tưởng còn ngồi trong buồng Ngọc. Ngước mắt trông lên thấy các tượng thấp thoáng trong bóng đèn tù mù dầu lạc. Tuy không nhìn rõ, nhưng Lan cũng tưởng tượng ra cái vẻ tươi cười, khoan dung mà lãnh đạm của những pho bụt. Từ từ Lan cúi mặt như người bị quở mắng, rồi rón rén tới bục gỗ quì xuống thì thầm khấn khứa ’’

Ngọc đi được ba bốn ngày, Lan buồn tẻ chẳng thiết gì, một buổi chiều, Lan thơ thẩn bên vườn sắn, cô thả hồn về phía xa, thở dài buột miệng : Cõi Niết Bàn, chốn Bồng Lai ! Cô mỉm cười lẩm bẩm “ thế nào cũng phải xa lánh nơi trần tục’’. Khi ấy cô đã thu hết can đảm để chế ngự tội lỗi và lúc này lòng tin mộ đạo đang ưu thế tưởng như tình yêu, tội lỗi không bao giờ còn quay trở lại được.

“ Tiếng chuông đổ hồi như vui mừng cười khanh khách vì đã giải thoát được linh hồn Lan ”

Dần dần ngày đêm vui đạo Phật, lòng đã nguôi đi, khi chiều tà gió thổi, trăng mọc đầu non, hình ảnh người bạn vẫn còn phảng phất, nhưng đạo từ bi vẫn thắng được mối tình chớm nở, Lan vui mừng vì đã qua được một bước khó khăn trên đường thoát tục.

Nhưng có ngờ đâu, cám dỗ lại trở về, Ngọc lại hiện ra, chàng cho biết lên thăm Lan như vậy có tội với sự tu hành của cô, nhưng vì chàng không thể nào quên được cô. Lan hốt hoảng :

“ Ông điên mất rồi . . . Ông nên cưỡi xe đạp trở về ngay ”

Ngọc có vẻ thất vọng, chàng nói chỉ thăm Lan lần cuối cùng, mai kia kẻ Bắc người Nam, sẽ không bao giờ còn gặp lại nữa. Lan nghe vậy bèn bưng mặt khóc, nước mắt ràn rụa ướt cả vạt áo, tình yêu tội lỗi lại xâm chiếm lấy tâm hồn cô . . . cám dỗ lại nổi lên thật ghê gớm :

“ Ngọc vội cúi xuống đỡ tay Lan kêu van:

- Ngọc xin lỗi Lan.Đấy Lan nghĩ xem Lan có thể không yêu Ngọc được đâu? cặp linh hồn ta như một điệu nhạc, không cảm động nhau sao được! ”


Ngọc tưởng đã nắm chắc phần thắng trong tay, nhưng sức mạnh của lòng mộ đạo ở như Lan vẫn còn mãnh liệt lắm, nó lại đẩy lui cám dỗ ngay:

“Lan đứng phắt dậy sẽ ẩy bạn ra .
- Không bao giờ thế được . . . . . . . . Thôi ông đừng nói nữa, mỗi lời nói của ông như đốt như sé ruột kẻ tu hành này , ông nên về ngay đi .” . .

Cô cho biết sẽ bỏ chùa trốn lên tu ở miền thượng du, thế là Ngọc đành phải nhượng bộ, chàng chỉ xin lâu lâu ghé thăm bạn và thề rằng suốt đời chàng sẽ thờ phụng trong tâm trí cái linh hồn dịu dàng của Lan, sẽ sống mãi trong thế giới mộng ảo của tình yêu bất vong bất diệt.

Và sau cùng, trải qua bao nhiêu phấn đấu cam go, Lan đã đủ nghị lực để xa lánh chốn trầm luân và lại dấn bước trên con đường xuất gia thoát tục. Đức Phật nói “Ai tự thắng mình là người chiến sĩ dũng cảm nhất ”. Lan được coi như một chiến sĩ dũng cảm vì đã can đảm chống lại cám dỗ của tình yêu tội lỗi. Mặc dù trái tim đã rung động sốn sao vì mối tình chớm nở của người thiếu nữ đang độ xuân thì, nhưng cuối cùng cô vẫn là người chân tu thoát tục, đã giữ vẹn được lời thề trước Đấng Từ Bi. Cuộc phấn đấu chấm dứt, “the war is over”.

Qua ngọn bút mô tả của Khái Hưng, Ngọc và Lan thể hiện hai thế giới hoàn toàn khác biệt: Ngọc tiêu biểu cho người trần tục nghĩ rằng tình yêu mới là quan trọng vô biên, ở như chàng cũng đã diễn ra sự tranh đấu giằng co giữa lương tâm và tội lỗi, chàng cũng ý thức được rằng lấy tình yêu để cám dỗ một người mộ đạo như Lan là điều tội lỗi, chàng có lòng quân tử nhưng bị Thần ái tình chế ngự, chàng đã không giữ được lời thề :

. . “ Chỉ vì tôi không quên được nên tôi mới khổ tâm thế này . . . nếu tôi quên được hết thì đâu đến nỗi . . ”

Lan tiêu biểu cho con người xuất thế, cô cho rằng tình yêu chỉ là ảo tưởng của hạnh phúc, một sự thể hiện của chốn trầm luân, nó chỉ là một sự nhỏ nhen so với lòng bác ái của Đấng Từ Bi .

“ Trên đời chỉ có lòng bác ái mới là đáng kể ”
Phần kết thúc Ngọc có nói rằng :

“. . Tôi không có gia đình nữa. Đại gia đình của tôi nay là nhân loại, là vũ trụ, mà tiểu gia đình tôi là . . . hai linh hồn đôi ta, ẩn núp dưới bóng từ bi Phật tổ ”

Và như vậy tình yêu của Lan và Ngọc chỉ là một phần tử nhỏ nhen của lòng bác ái bao la, vì lòng bác ái mà Phật Tổ đã lang thang khắp bốn phương trời để tìm phương giải thoát cho nhân loại.

Hồn Bướm Mơ Tiên, tác phẩm của tình yêu. . . nó thể hiện một tình yêu rộng rãi bao la: đó là Tình Yêu Nhân Lọai .

Trích trong cuốn NHỮNG TRUYỆN HAY CỦA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN năm 2003, nhà xuất bản ĐẠI NAM

(Địa chỉ P.O Box 4279 Glendale CA 91202, điện thoại 818.244.0135)



ĐẠO PHẬT TRONG TIỂU THUYẾT "HỒN BƯỚM MƠ TIÊN" 
Hoàng Như Mai


Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên đã là cuốn sách làm say mê độc giả một thời, ấy là vì nó là lời tự bạch của một thế hệ, trong số đó có Khái Hưng là đại diện - một thế hệ bị khủng hoảng tinh thần, khủng hoảng niềm tin trước thời cuộc, hoang mang trước cái nguy cơ tự đánh mất mình, tự huỷ hoại và đã tìm thấy niềm tin, sự tế độ trong đạo Phật.

Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở  đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng, cũng là cuốn tiểu thuyết đăng nhiều kỳ  trên báo Phong Hóa của nhóm Tự Lực văn đoàn được độc giả nhiệt liệt hoan nghênh. Cuốn tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên tạo ra một uy tín lớn cho tờ báo Phong Hóa và nhóm Tự Lực văn đoàn, khích lệ các nhà văn của nhóm sáng tác, và tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn đã giành được vị trí hàng đầu trong phong trào văn học trong một thời gian dài; cho đến nay, âm vang của tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn vẫn còn đọng trong ký ức độc giả, trong đó, được cảm tình sâu sắc nhất là tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên.
Thế nhưng, đối chiếu với tôn chỉ mục đích của Tự Lực văn đoàn và khuynh hướng chung của tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn thì tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên lại đứng ở môt vị trí độc lập, biệt lập nếu không nói là đối lập.
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên hướng về đạo Phật rất rõ.
Sau thế chiến thứ nhất, thực dân Pháp ra sức khai thác các thuộc địa để bù vào những tổn phí trong chiến tranh. Ở Việt Nam, cuộc khai thác thuộc địa này là lần thứ hai ( lần thứ nhất được tiến hành sau khi xâm lược Pháp đã chiếm xong cả ba miền Nam, Trung, Bắc ).
Từ 1924 đến 1929 là thời kỳ hoàng kim trong lịch sử khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Nhưng giữa lúc đó thì xảy ra cuộc kinh tế khủng hoảng thế giới kéo dài từ 1929 đến 1933. Việt Nam không đứng ngoài cuộc.
Cuộc sống cực kỳ khó khăn. Nạn thất nghiệp trầm trọng, người chết đói như rạ:
Một đồng được chín mười thương
Mẹ con chết đói vì chưng không tiền.
Trong cuộc tranh giành nhau cái sống, những tệ nạn xã hội diễn ra khủng khiếp.
Năm 1929, nổ ra cuộc bạo động do Việt Nam quốc dân đảng tổ chức. Các cuộc khởi nghĩa ở Yên Bái, Hưng Hóa,  Phú Thọ, Sơn Tây,... vào đầu năm 1930. Không thành công; bọn cầm quyền tiến hành đàn áp đẫm máu.
Năm dấy lên phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh càng khiến cho thực dân Pháp lo sợ. Chúng không ngần ngại mở ra những cuộc khủng bố tàn bạo.
Trong khung cảnh kinh tế và chính trị như vậy, nhân dân hoang mang, điêu đứng tột độ, tưởng chừng như sống trong địa ngục trần gian. Số người tự tử không ít.
Và người ta cần có niềm tin để sống và hi vọng. Người ta tìm đến đạo Phật từ bi phổ độ.
Một phong trào chấn hưng Phật giáo diễn ra mạnh mẽ. Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học được thành lập năm 1930, cho xuất tạp chí Từ Bi Âm. Ở miền Trung, hội An Nam Phật học được thành lập năm 1932, có tạp chí Viên Âm làm cơ quan ngôn luận. Ở Hà Nội sau một thời gian vận động, Hội Phật giáo Bắc Kỳ được thành lập (1934). Hội cho xuất bản kỷ yếu và tạp chí Đuốc Tuệ.
Sáng lập các hội là các thiền sư đạo cao đức trọng và các nhà trí thức đầy uy tín đương thời.
Nhà văn Khái Hưng, một người có tâm hồn nhạy cảm, có học vấn sống trong hoàn cảnh xã hội ấy chắc chắn có chịu ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo khi sáng tác tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên.
Sơ lược cốt truyện như sau:
Ngọc là sinh viên trường Canh Nông trong dịp nghỉ hè về ở với ông bác là sư tổ chùa Long Giáng. Chùa có một chú tiểu tên Lan. Thấy Lan là người có học, tính tình hòa nhã, Ngọc thân ngay. Nhưng Lan thực ra là gái, cha mẹ mất sớm, ở với chú bị chú ép gả chồng, mà Lan thì khuynh hướng về đạo Phật từ nhỏ do ảnh hưởng của mẹ, nên Lan bỏ nhà,  cải dạng nam trang đến chùa Long Giáng xin  tu. Khi Ngọc phát hiện Lan là gái, chàng từ tình bạn chuyển sang tình yêu. Vì Lan quyết chí tu hành như đã hứa với mẹ  lúc lâm chung, cô khước từ tình yêu của Ngọc.
Câu chuyện giản dị, không có gì ly kỳ gay cấn. Tác giả củng không diễn tả, phân tích tình yêu phức tạp, éo le như ta thường  thấy trong các tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn và các tiểu thuyết đương  thời. Cả cái mô-tip: xung đột ái tình - tôn giáo cũng không được khai thác triệt để nhằm thu hút hứng thú của độc giả. Đọc tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên, ta cảm nhận rõ ràng Khái Hưng mượn câu chuyện để nói về đạo Phật, để  trình bày cái nhìn của ông đối với đạo Phật.  Quả là Khái Hưng có nhìn đạo Phật qua cái lăng kính thi vị hóa, nhưng ông nhìn đúng, với cái tâm của một người am tường, và mộ  đạo.
Ngay từ đầu tiểu thuyết, tác giả đã miêu tả chùa Long Giáng, một ngôi cổ tự thanh u tịch mịch dễ cảm hóa lòng người, nâng người ta vươn lên tinh thần hướng thiện:
Phía Tây sau dẫy đồi cỏ biếc sắc đồi đỏ, ửng lấp loáng qua các khe đám lá xanh đen. Mái chùa rêu phong đã lẫn màu cùng đất  cùng cây, cùng cỏ. Khoảng khắc mấy bức tường và mấy cái cột  gạch quét vôi chỉ còn lờ mờ in hình trong cái cảnh nhuộm đồng một màu tím thẫm. Lưng chừng  một cái đồi cao, mấy nóc nhà rêu mốc chen lẫn trong đám cây rậm rạp, bốn góc, bốn gác chuông vượt lên trên từng lá xanh um.
... Trong làn không khí êm đềm, tiếng chuông thong thả ngân qua như đem mùi thiền làm tăng vẻ đẹp của cảnh thiên nhiên.  Lá cây rung động, ngọn  khói thiết tha, bông lúa sột soạt như cảm tiếng gọi của Mâu Ni muốn theo về nơi hư không tịch  mịch".
Câu chuyện về sự tích Văn Khôi công chúa, con vua  Lý Nhân Tôn, không  chịu  lấy  chồng, đang đêm trốn khỏi cung, tìm đến tu ở chùa này, vì thế nhà vua nổi giận sai phóng hỏa đốt  chùa; nhưng ngọn lửa vừa nhóm, có con  rồng  vàng hiện lên  phun  nước lửa tắt ngay, vì thế chùa mới có tên Long  Giáng lại  tôn thêm giá trị kỳ thú của ngôi chùa,  làm nảy sinh trong lòng người môt niềm tin thành kính.
Tác giả dẫn độc giả đến  với những sinh hoạt trong chùa được tác giả quan sát rất tinh tế:
"... Trên chiếc bục gỗ trải chiếc đậu sư cụ ngồi tụng kinh cặp mắt đăm đăm nhìn thẳng vào quyển sách có chữ to đặt trên cái kỷ nhỏ gỗ mọc.
Tay phải sư cụ cầm dùi gõ mõ như để  chấm câu cứ đọc bốn chữ lại đánh một tiếng. Tay trái sư cụ đặt lên trên quyển kinh, thỉnh thoảng lại rời quyển sách, nhắc chiếi dùi gõ một tiếng vào cái chuông con trông hình dáng như cái lon sành.
  Sư  cụ có vẻ tôn nghiêm lắm. Bao nhiêu tâm trí hình như thu cả vào  quyển kinh, không hề  thấy cụ liếc mắt ra chỗ  khác. Các pho tượng ngồi trên bệ  gạch thì hình như đang lắng tai nghe, có vẻ trầm tư mặc tưởng.
Tiếng kinh du dương, mùi trầm ngào ngạt, Ngọc tưởng tượng sống trong một thế giới khác, thế giới mông ảo thần tiên.
... Chú  ( chú tiểu Lan ) vẫn chăm chú vào phậnsự: cứ đọc một câu lại đánh mọt tiếng bớt, khi câu niệm chỉ còn it chữ thì hai tiếng kế tiếp lại thêm gần nhau cho tới khi chu tiểu đổ hồi.
Ngọc  cố chờ  đến mười lăm phút cho chú tiểu đánh dứt hồi  chuông, cuối cùng  đặt vồ  xuống ván gác, rồi  nghiêm trang hỏi rằng:
- Sao chú phải cầu kinh thế mới đánh được chuông ?
Lan cười:
- Đánh chuông phải đọc thần chú  chứ.
- Thần chú !  Hay nhỉ.
- Nghĩa là mười sáu câu niệm Phật,  ba hồi một trăm hăm ba tiếng.
- Vậy nhớ được cũng khó  lắm nhỉ.
- Phải học thuộc lòng  chứ.
- Những  ba hồi, một trăm  hăm ba tiếng ! Thảo nào mãi bây giờ mới dứt hồi ".
Những công  việc này, đối với các nhà tu hành thì  không  có gì đáng để ý vì là quen thuộc; nhưng đối với những  ai chưa ở chùa thì tác giả đã cho thấy chùa  là nơi có  quy  củ, trật tự nghiêm chỉnh , mỗi  hành vi đều có  ý  nghĩa, không phải là xô bồ luộm thuộm như nhiều người lầm tưởng.
Mấy trang tiểu  thuyết diễn tả  lễ  làm chay thật là sinh động:
Luôn hai tối, các  nhà sư ở những chùa lân cận nhận được giấy mời của sư cụ  Long  Giáng tề tựu đến dự lễ rất đông.
Ngoài  sân  chùa,ở giữa bày ba  tầng án thư chồng lên nhau theo hình thang.  Hai bên cũng  đều  có án thư. Nến thắp linh tinh,  ánh sáng phản  chiếu vào những  mặt kính  tròn  ở  các mũ giấy bày la liệt kín cả mấy hàng án thư trông lấp  lánh như các  ngôi sao trên trời.
Tối nào  các nhà sư cũng cắt  lượt nhau tụng kinh đến  tận  hai ba  giờ sáng, hoặc ngồi ở chiếu giữa hoặc  đứng  sát các án thư bên. Cứ  xong một lần tụng niệm lại có đánh  trống lớn , trống con, thanh la, não bạt,nghe rất là  inh ỏi.
Đến tối  thứ ba thì  vào đàn giải kết.
... Sư ông ngồi ở chiếu giữa tụng kinh một lúc lại  chạy vòng quanh đàn , nghĩa là đi lượn khắp các hàng án thư, theo nhịp nhanh hay chậm của  tiếng trống  và tiếng thanh la. Sau lưng sư ông gần hai chục người chạy theo, nào tiểu nào vãi, nào thiện nam tín nữ cùng là  những người sự chủ.
... Chạy  xong một tuần sư ông lại vào chiếu giữa múa mênh quyết  ấn  trông rất dẻo tay, rồi cầm kéo  cắt những đồng tiền kết  giấy thành hình người và treo lủng lẵng ở ba hàng dày chung quanh bàn. Cứ mỗi lần lại cắt bốn, năm đồng , kỳ cho hết  là  tan đàn.
Trong khi ấy thì những người tùy tùng  hoặc vào ngồi lễ  ở sau lưng sư hoặc  đứng sang một bên lẫn vào chỗ người đi xem".
Đối với các nhà folklore học, đây là những  tư liệu để nghiên cứu rất bổ ích và thú vị. Với sự thông thái, họ sẽ lượng giá được  những đặc sắc của một nền văn hóa dân tộc không thể xem thường. Cuộc lễ làm chay có cả một cơ sở triết lý và biểu hiện một giá trị nghệ thuật đặc biệt.
Những người dân Việt Nam  bình thường  dự lễ được ghi nhớ, hiểu thêm về lễ nghi phong tục đậm đà bản sắc dân tộc, những truyền thống quý báu mà  ông cha  ta đã  gây dựng và lưu truyền lại cho con cháu. Họ được học một cách trực  quan, sâu  sắc bài học đạo hiếu đối với cha mẹ:  một đạo lý thiêng liêng, một tín ngưỡng rất có ý nghĩa. Đạo Phật đi vào lòng nhân  dân một cách tự nhiên như vậy.
Nhiều người  vẫn  cho  rằng tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên nêu lên sự  xung đột giữa Ái tình và Tôn giáo. Không hẳn như vậy, ấy chỉ là một tình tiết của  câu truyện.Ta hãy bàn về tình tiết ấy trước và vấn  đề có  xung đột hay không, sẽ  bàn sau.
Khi phát hiện tiểu Lan là gái giả trai,  Lan lại xinh đẹp, hiền hòa, dịu  dàng, Ngọc đã  nảy sinh tình yêu, điều này là  có  thể. Lan là cô thiếu nữ trẻ, có  học , bấy lâu sống với những người trong chùa là dân quê chất  phác,  nay gặp  Ngọc có học vấn, tính tình hòa  nhã vui vẻ, tất nhiên cũng có  cảm tình. Lan vì trốn một cuộc tình duyên ép buộc mà đi tu, cô mới tu được hai năm, chưa phải đã  dứt bỏ được thế  tục, mà Ngọc lại bộc  lộ tình yêu tha thiết, chân thành, Lan làm sao tránh khỏi được  đôi lúc phân vân ? Nhưng mỗi  lúc nhận  thấy mình chơi vơi, Lan vội cầu viện sự cứu trợ của đức Phật.
Lần thứ nhất, Lan leo lên thang gác chuông, bất thình lình gặp rắn, hoảng sợ ngã  vào lòng Ngọc; sau đó Ngọc đứng canh rắn để Lan thỉnh chuông.
Sự  đụng chạm giữa trai và gái, cùng lòng hào hiệp của Ngọc có tác động đến tình cảm của Lan. Lập tức đêm ấy, Lan thắp nhang  tụng niệm cầu khấn đức Từ bi phù hộ cho có đủ nghị lực xa chỗ trầm luân.
Lần thứ hai, Lan đọc bức thư bày tỏ tình yêu của Ngọc ( Ngọc viết định đưa Lan nhưng không dám, xé đi, Lan vô tình chắp lại những mãnh giấy và đọc được ), Lan bị xúc động:
Lan buồn rầu nghĩ  ngợi, hai bên má có ngấn hai hàng nước mắt.
Bỗng có tiếng mõ tụng kinh ở chùa đưa tới.
Một nụ cười kín đáo trên cặp môi Lan thong thả trở về.
... Vào trong nhà chùa ngửi thấy mùi trầm ngào ngạt nghe thấy tiếng tụng kinh dịu dàng, Lan tươi cười  thở dài, như kẻ ngã xuống sông vừa ngoi lên được mặt nước vậy.
Làn không khí êm đềm tịch mịch bao bọc, những pho tượng khổng lồ, nét mặt thản nhiên. Trên bục gỗ sư cụ khóac  áo bốn thân ngồi ngay thẳng như pho tượng chỉ hơi mấp máy cặp môi và động đậy cánh tay gõ mõ.
Lan đứng sửng hồi lâu, nhắm mắt lim dim hai tay, chắp ngực, rồi thong thả nhẹ nhàng như cái bóng, mon men lại sau lưng sư cụ ngồi xệp xuống đất, lâm râm khấn khứa ".
Lần thứ ba, một cử chỉ không cố ý của Ngọc làm cho áo của Lan tuột cúc trễ vạt ra, Ngọc thoáng thấy ngực Lan quấn vải nâu. Lan sợ quá bỏ chạy và Ngọc cũng rất hối hận. Ngọc chạy tìm Lan và trấn an Lan là chàng không có tà tâm gì hết, thề với Lan sẽ về Hà Nội để Lan yên tâm tu hành.
Ngọc về Hà Nội. Lan bỗng cảm thấy sầu khổ: Lan đã yêu .
Lan lẩm bẩm: " Ta rất có tội với đức Phật tổ ". Lúc ấy,  Lan thoáng ngửi thấy mùi trầm. Thì ra lên tới chùa trên từ bao giờ mà Lan không biết vẫn tưởng còn ngồi trong buồng Ngọc. Ngước mắt trông lên các tượng thấp thoáng trong bóng đèn tù mù dầu lạc. Tuy không nhìn rõ, nhưng Lan cũng tưởng tượng ra cái vẻ tươi cười khoan dung mà lãnh đạm của  những pho Bụt. Từ từ Lan cúi mặt như người vừa bị  quở mắng, rồi rón rén tới bục gỗ quỳ xuống  thì thầm khấn khứa ".
Lần thứ  tư  là sau khi chùa Long Giáng vắng bóng Ngọc. Ba bốn ngày sau khi Ngọc đi, chú chẳng thiết làm gì, chẳng muốn ăn uống gì...
Chiều hôm ấy, mặt trời đã lặn sau rặng đồi tây, Lan còn thơ thẩn ở trên vườn sau chùa. Ngồi trên bó cành lẫn lá để ngổn ngang chưa buộc cặp mắt lờ đờ nhìn về phía xa xa, linh hồn Lan như đương theo đám mây phản chiếu sắc hồng của vừng thái dương mà bay về nơi hư vô tịch mịch. Lan thở dài buột mồm thong thả nói: " Nát bàn ! Bồng lai ! ".
Hai ý tưởng " tôn giáo " và " ái tình " hình như đương công kích nhau ở trong tâm trí.
Bỗng Lan giật mình tỉnh bừng giấc mộng. Tiếng chuông như cất giọng từ bi vỗ về an ủi dỗ dành. Lan mỉm cười lẩm bẩm: " Thế nào cũng phải lánh xa nơi trần tục".
Tiếng chuông đổ hồi như  vui mừng cười khanh khách vì đã giải thoát được tâm hồn Lan.
Lan cũng cười tiếp theo hồi chuông, tiếng cười lanh lảnh trong làn không khí yên lặng dưới ánh tà mù thảm đạm buổi chiều tà".
Xung đột giữa ái tình và tôn giáo ? Không có. Bởi vì nếu là xung đột thì cuộc giao tranh sẽ quyết liệt, giằng co, đưa tới bi kịch. Ở đây, quả là có những lúc ái tình gợn lên trong Lan, tuy nhiên nó cũng như những lượn sóng gợn lên trên mặt hồ khi có hòn đá ném xuống, nhưng chỉ  trong chốc lát mặt hồ lại trở về phẳng lặng; nó cũng như hạt sương còn đọng lại trên lá buổi sớm mai, nhưng mặt trời chiếu nắng là sương tan ngay.
Thế thì có thể nói: Đạo Phật đàn áp tình cảm ?
Không đâu.
Hãy đọc đoạn đối thoại của Lan và Ngọc ở phần kết thúc; khi Ngọc trở lại chùa thăm Lan:
-Vậy xin Lan cứ ở đây tu hành, rồi ngày Ngọc được nghỉ cho phép Ngọc phóng xe đạp lên đây thăm Lan, Lan có ưng như thế  không ?
Lan mỉm cười:
- Nếu được mãi như thế ?
- Tôi xin thề với Lan rằng tôi giữ được mãi như  thế. Tôi nêu Phật tổ tôi xin thề với Lan rằng suốt trong đời tôi, tôi sẽ chân thành thờ ở trong tâm trí, cái linh hồn dịu dàng của Lan.
- Thế nghĩa là thế nào ?
- Nghĩa là suốt đời tôi, tôi không lấy ai, chỉ sống trong cái thế giới mộng ảo của ái tình lý tưởng, của ái tình bất vong  bất diệt.
Lan hai dòng nước mắt đầm đìa, dịu dàng bảo bạn:
- Không được. Còn gia đình của ông ?
Ngọc lạnh lùng:
- Gia đình ! Tôi không có gia đình nữa. Đại gia đình của tôi nay là nhân loại, là vũ trụ mà tiểu gia đình tôi là... hai linh hồn của đôi ta ẩn núp dưới bóng từ bi Phật tổ.
Lan tươi cười, ôn tồn bảo bạn:
- Tôi không ngờ Phật giáo đã cảm hóa ông được sâu xa đến thế.
Đương nhiên hai người trẻ tuổi ấy chưa hoàn toàn rũ sạch được trần tâm, chưa đạt  tới được đỉnh " vô ngã ", nhân sinh thành Phật dễ đâu ( Truyện Nam hải Quan Thế Âm ), nhưng đích thật họ đã vượt qua được vũng bùn tình dục mê muội mà vươn lên tình yêu thuần khiết, tình yêu vị tha; ấy là bước đầu giải thoát.
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên đã là cuốn sách làm say mê độc giả một thời, ấy là vì nó là lời tự bạch của một thế hệ, trong số đó có Khái Hưng là đại diện - một thế hệ bị khủng hoảng tinh thần, khủng hoảng niềm tin trước thời cuộc, hoang mang trước cái nguy cơ tự đánh mất mình, tự huỷ hoại và đã tìm thấy niềm tin, sự tế độ trong đạo Phật.

Nguồn: khoavanhoc-ngonngu.edu.vn

No comments:

Post a Comment