Friday, January 27, 2017

Việt Nam - Một Dân Tộc Hèn Hạ & Lụn Bại [Sưu Tầm]



(Trích tiểu thuyết Cò hồn Xã nghĩa)

…. “Lịch sử con người, lịch sử xã hội của nước Mynga có thể khái quát như sau:

Dân tộc Mynga là một dân tộc tạp nham; đụ, đị, đẻ, đái, ăn ị tạp nham. Đàn ông chỉ thích đụ mà không cần biết mình đụ vì cái gì, đụ để làm gì?



Cái bọc trăm trứng[1] là biểu tưởng của sự đụ, đị, đẻ, đái, ăn ị tạp nham đó.

Cái triết luận sinh tồn, trời sinh voi trời sinh cỏ[2], hẳn cũng ra đời từ tâm thế đụ, đị, đẻ, đái, ăn ị vô trách nhiệm đó.

Con cấy nước Mynga lại có truyền thống lẳng lơ, lại cũng rất anh hùng, thảo khấu, sẵn sàng chung chạ, bất chấp hao mòn:

Lẳng lơ cũng chẳng hao mòm

Chính chuyên cũng chẳng sơn son mà thờ[3] .

Vì vậy, ngoại bang đến xứ này, người nào cũng muốn gieo giống. Người Tây mũi lõa, tóc xoăn đã có một trăm năm gieo giống trên xứ này. Hán Tàu có cả ngàn năm gieo giống trên xứ này. Thậm chí, để độc quyền gieo giống, Hán Tàu còn hoạn hết dái của đàn ông xứ Mynga ta.


Trăm năm, ngàn năm, xứ Mynga ta bị ngoại bang độc quyền đụ, đẻ như vậy, dòng giống Tiên Rồng có còn không? Còn những ai? Còn mấy người?

Giống nòi đã như một kiếp nạn khó thoát. Kiếp nạn đó, lại tái hiện mạnh mẽ khi nước Mynga xây dựng chế độ xã hội Cò hồn do bọn cộng sản giả cày lãnh đạo toàn diện, triệt để.

Còn lịch sử phát triển bốn ngàn năm của Mynga ta, thực chất là lịch sử của bốn ngàn năm đánh dậm, tị nạn, rút chạy, bỏ nước và mất nước.

Giặc phương Bắc, từ cổ chí nay, suốt ngày dài lại đêm thâu, liên tằng xâm lược và xua đuổi dân Mynag ta.

Kẻ cơ hội thì chấp nhận làm tay sai cho giặc.

Kẻ khôn khéo, yếu hèn thì chấp nhận bị đồng hoá.

Kẻ giang hồ, hảo hán thì vừa ném đá vào giặc, vừa bỏ chạy.

Phận ai, người ấy lo, cứ bám lấy mép biển mà chuồn về phía Nam cho đến khi hết đất chạy mới thôi.

Bởi vậy, đất đai sông núi nước Mynga ta cứ bị co dần lại.

Nòi giống Tiên Rồng bị Hán hóa dần, tiêu diệt dần.

Từ một Bách Việt mênh mông, kéo dài cho tới hồ Động Đình[4], nay, chỉ còn lại một theo đất bồi con con, oằn mình nằm dài, ngoi ngóp theo mép biển, mang dáng hình con tôm cứt lộn lên đầu. Sáu mươi lăm thành trì Hai Bà Trưng[5] đánh đuổi giặc phương Bắc, nay, các thành đó nằm ở đâu? Nó, hầu hết đều nằm ở bên Hán Tàu.

Oai phong như Lý Thường Kiệt[6], cũng chỉ dám lén đánh đến châu Ung, châu Khiêm, rồi lại rút quân về, lưỡng Quảng vẫn nằm trong tay quân xâm lược.

Oai hùng như Nguyễn Huệ[7], cũng chỉ doạ:

Đánh cho chúng để đen răng,

đánh cho chúng để dài tóc”.

Nguyễn Huệ chẳng phải đánh, người Hán, tóc cũng đã dài, đến khi cách mạng Tân Hợi năm Một chín mười một do cụ Tôn Trung Sơn lãnh đạo thành công, tóc người Hán mới được cắt ngắn đi. Còn răng thì chưa thấy họ đen bao giờ.

Cứ cái đà này, trong tương lai gần, dân tộc Mynga ta lại phải rúc đầu vào hang động mới có chỗ ẩn nấp để duy trì nòi giống và đất nước.

Thời cộng sản Hò Văn Đản cầm quyền, các cuộc di dân tháo chạy bỏ nước diễn ra còn khủng khiếp hơn. Đó là cuộc tháo chạy năm Một chín năm tư, năm Một chín bảy lăm, sau năm Một chín bay lăm cho đến tận bây giờ.

Hiện tình đất nước, dân tộc như vậy, lấy gì mà tự hào, mà vênh mặt lên trước thiên hạ toàn cầu!?.

Thưa bà con dân nước Mynga!

Lịch sử một ngàn năm nhà nước cũng chưa từng có một minh quân. Bọn cầm quyền, rặt một bọn con hoang, lưu manh; rặt một phường lục lâm, thảo khấu.

Đinh Tiên Hoàng, chả thế ư?[8]

Lê Đại Hành, chả thế ư?[9]

Lý Công Uẩn, chả thế ư?[10]

Trần Thủ Độ, chả thế ư? [11]

Hồ Quý Ly, chả thế ư?[12]

Lê Lợi, chả thế ử?[13]

Quang Trung – Nguyễn Huệ, chả thế ư?[14]

Nguyễn – Gia Long, chả thế ư?[15]

Dòng dõi đương đại Hò Văn Đản, chả thế ư?

Vì vậy, ở nước Mynga ta, tôi chưa từng thấy có ai tài cao, đức độ mà đươc trọng dụng viên mãn trọn đời.

Vị tiến sĩ khoa bảng đầu tiên mang danh trí thức Lê Văn Thịnh[16], cũng là vị trí thức đầu tiên bị khép vào tội âm mưu giết vua[17]. Tuy được tha tội chết, nhưng buộc phải đi đày biệt xứ, để lại tấm gương tày liếp cảnh báo cho kiếp phận nho sinh, trí học cả ngàn đời về sau ở đất nước Mynga ta.

Tượng rồng đá ở đền thờ Lê Văn Thịnh đã khắc tạc sự cảnh báo đau đớn này. Đó là tượng đầu rồng, mình rồng, nhưng cái đuôi lại là đuôi rắn.

Dân Mynga có câu: Giấu đầu, hở đuôi[18],.

Rồng ở đây cũng chẳng phải là rồng. Nó chỉ là một con rắn mang lốt rồng. Đầu, thân tượng tạc uy nghiêm, lóng lánh vảy rồng, nhưng bản chất chỉ là loài rắn, mà là loại rắn độc, rắn hổ mang chúa. Vì chỉ có hắn hổ mang chúa mới ăn thịt rắn hổ mang chúa, tức ăn thịt đồng loại. Miệng rồng há to, ngoặm dữ tợn, quyết liệt vào thân rồng, thêm  bằng chứng, thể hiện rồng chỉ là một con rắn độc. Hình ảnh tàn độc, miệng rồng cắn vào thân rồng, nói lên quan hệ Vua với Tôi. Tôi ở đây là trí thức. Rồng cắn vào thân rồng, tức cắn vào trí thức, tức cắn vào chính thân mình. Với tượng rồng thờ được tạc như vậy, khẳng định, dân tộc này, Vua không ra Vua, Tôi trung trí thức chỉ là một miếng mồi. Kẻ có quyền, thích thì sử dụng, không thích thì bị ăn thịt. Xây đền thờ rồng, đầu rồng, mình rồng, đuôi rắn, cái miệng há to ngoặm quyết liệt vào thân, tiền nhân đã gửi một thông điệp: trí thức luôn bị tiêu diệt, là một nghiệp chướng sẽ diễn ra muôn đời ở nước Mynga ta.

Lịch sử ngàn năm có nhà nước ở nước Mỹ Nga ta đã xảy ra đúng như thông điệp cảnh báo, nhắn gửi từ đền thờ Lê Văn Thịnh.

Chính trị, quân sự, ngoại giao, văn chương, thao lược, tài năng, đức độ sáng như sao Khuê của công thần Nguyễn Trãi[19], cũng không tránh khỏi bị chu di cửu tộc.

Tài cao chạm tới trời xanh như Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm[20], biết năm trăm năm về trước, năm trăm năm về sau, cũng phải bỏ chính trường, sớm về quê ở ẩn.

Thánh thuốc, chữa bệnh cứu người, tài đức vang danh bốn cõi như Lê Hữu Trác[21], cũng phải lánh mình tận nơi biên thùy, khỉ ho, cò gáy, phải ẩn danh như một kẻ lười biếng Lãn Ông mới qua được sự đố kỵ hiền tài.

Ba lần đỗ đầu kỳ thi, văn thơ chói ngời một tấm lòng tiết tháo như Nguyễn Khuyến[22], cố làm quan cũng không thể được, đành phải cáo quan về nơi thôn dã ở ẩn.

Dũng lược, thấu đời, mở mang đất đai bờ cõi, nhà quân sự, kinh tế, nhà thơ tài ba như công thần Nguyễn Công Trứ[23], cũng không tránh khỏi lên voi, xuống chó nhiều lần.

Thánh chữ như Cao Bá Quát, văn như Siêu, Quát vô tiền Hán[24], cũng không thoát khỏi tội chu di, sách không tránh khỏi bị đốt, tiêu hủy.

Còn rất nhiều, rất nhiều những người tài cao, đức trọng bị vua quan triều đình đầy đọa thủ tiêu như vậy. Nó là hệ quả của những kẻ làm vua, làm chúa, không cha truyền con nối thì lại rơi vào đám con hoang, bọn lục lâm, phường thảo khấu.

Thời Mynga ta đây cũng thế thôi.

Đảng trưởng Hò Văn Đản là con hoang. Bọn tham mưu đồng chí của hắn cũng rặt một lũ con hoang, phường lục lâm, thảo khấu.

Vì thế, bọn chúng mới có căn cốt tàn hoang, ác độc.

Mới giết người mẹ dưỡng dục nên hắn.

Mới giết thầy Ký Định có tài chữa bệnh hơn người.

Mới đầy đọa, thủ tiêu Phạm Vương, mấy chục vạn đồng chí có đức, có tài, có uy tín hơn hắn.

Mới gắp lửa bỏ tay người, ép người anh hùng Trần Chiến Thắng cùng đường, phải nhảy xuống sông tự tử.

Mới khủng bố, ép giáo sư Hà Độ phải treo cổ chết.

Mới xem bác sĩ Minh Quân như một con lợn, cho vào rọ, dìm xuống ao, ép phải bỏ đời mà đi bằng thuốc trừ sâu.

Mới ép đàn bà, con gái thành gái điếm.

Mới ép đàn ông thành kẻ yếu hèn, cam phận sống kiếp đời nô lệ.

*

Thời nào cũng vậy, người tài cao, đức độ, thương dân, giỏi lắm cũng chỉ làm thợ, kiếp thợ, may ra còn bảo toàn được mạng sống; ngo ngoe muốn đem cái tài cao, cái đức độ lớn để bình trị thiên hạ, không bị tù mọt gông, cũng thành người thân tàn ma dại.

Cũng là vì bọn vua quan, tướng lĩnh, cha truyền con nối, lục lâm, thảo khấu có tới một ngàn năm cầm quyền mà đất nước thời nào cũng vô luật.

Vô luật, thực ra cũng là một thứ luật. Đó là thứ luật của quyền lực. Quyền lực là luật. Luật là quyền lực. Chính thể nào cũng chỉ có một thứ luật như vậy.

Mục đích là để chúng sử dụng quyền lực được tự do.

Quyền lực được dễ dàng lên nhanh, xuống nhanh như cái công cụ tình dục của giống đực; được dễ dàng rộng hẹp, nông sâu như cái công cụ tình dục của giống cái; được dễ dàng bắt người, giết người, đày đọa người như trò chơi tung hứng, xóc đĩa.

Thời Mynga Cò hồn Xã nghĩa lại càng rõ hơn. Bọn Hò Văn Đản chỉ soạn và ban hành những luật thiết thân cho bọn nó. Còn những luật dân cần, như luật được mở miệng ra, ăn nói tự do; luật làm ăn sinh sống; luật được sinh hoạt vui vẻ, có bầu có bạn; luật trừng trị cái ác; luật nhân ái, công bằng, văn minh… bọn chúng nhất nhất không ban hành.

Từ đó mà dân tộc hình thành nên những thứ người với tam khoang, tư đốm, sẵn sàng vô trách nhiệm, sẵn sàng ngoảnh mặt làm ngơ, sẵn sàng làm kẻ cướp, nhưng lại tham lam, hèn hạ chỉ muốn được, không muốn mất, chỉ muốn người khác vì mình…

Cho nên, văn hiến bốn ngàn năm là thứ văn hiến:

Được làm vua,

Thua làm giặc (giặc như vua).

Ngàn năm mãi mãi vẫn là:

Thượng bất chính,

Hạ tắc loạn.

Nhà dột từ nóc dột xuống.

Trên bảo, dưới không nghe.

Dưới kêu không thấu trời.

Ngàn năm mãi mãi vẫn là:

Cháy nhà hàng xóm,

bình chân như vại[25]

Của mình thì nâng niu

của người thì trôi vèo

Vân vân và vân vân.

Bà con có thấy tôi nói sai về nước Mynga ở chỗ mô không?

Hẳn là không.

Vậy, nước Mynga ta muốn lên chế độ Xã nghĩa, thì mỗi ngày, mỗi nhà cần chọn ra một vài người xấu xa nhất, đem đi xử bắn hoặc, tốt nhất, cả nước cùng đồng lòng mời nước Mỹ đem bom nguyên tử rải thảm ba miền. Chất nguyên tử sẽ thay ông Trời, dọn sạch những cặn bả thối tha, không thể cải tạo của giống người Mynga hiện sinh, từ đó tạo ra môi trường như những năm đầu tiên của bốn ngàn năm lịch sử.

Từ môi trường sống mới đó, một mẹ Âu Cơ, một cha Lạc Long Quân khác sẽ ra đời và từ từ sinh ra từng đứa con một, không phải sinh tạp nham, bầy đàn, một lúc ra cả trăm đứa con quả trứng[26] như trước đây.

Từ môi trường sống mới ấy, một giống người Tiên Rồng mới sẽ dần dần sinh sôi và trưởng thành. Từ mỗi người trưởng thành, nước Mynga mới, sẽ có cả một dân tộc trưởng thành.

Khi đã có một dân tộc trưởng thành nước Mynga ngàn năm mới có cơ sở để xây dựng thành công chế độ Cò hồn Xã nghĩa. Khi chưa có những con người mới này, nói, nước Mynga ta có thể xây dựng thành công chế độ Cò hồn Xã nghĩa với chính quyền của dân do dân vì dân  và có cuộc sống  làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu, chỉ là nói liều, nói ẩu.

Lãnh tụ vĩ đại của nước Mynga thời Cò hồn Xã nghĩa cũng đã dạy: Không có con người mới Xã nghĩa thì không có xã hội Xã nghĩa. Duy nhất tôi tán đồng câu nói này của hắn”.

*

Chà, chà, tôi bần thần cả người khi đọc hết lời giáo đầu trong cuốn sách:

“Khảo cổ học bốn ngàn năm lịch sử nước Mynga” của bác Minh Quân.

Một phát hiện độc nhất vô nhị, từ trước tới nay tôi chưa từng nghe các nhà lãnh đạo hay các nhà sử học, xã hội học nào của nước Mynga nói tới. Không rõ, cứ liệu dẫn ra của bác Minh Quân đúng, sai thế nào?

Nếu đúng thế thì,  nước Mynga ta rất cần phải tái sinh lại từ đầu mơi có cơ hội phát triển lành mạnh đúng quy luật phổ quát của trời đất.

Bỗng một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu tôi:

“Bác Minh Quân bị ép chết, phải chăng còn ở sự phát hiện lịch sử mới mẻ này? May mà cuốn sách đã đốt thành tro, chỉ còn lại có lời giáo đầu, nếu không, chắc gì bác đã được hưởng ân huệ chết được toàn thây từ chính quyền Hò Văn Đản?”…

[1] Theo truyền thuyết: Lạc Long Quân và Âu Cơ

[2] Tục ngữ Việt Nam.

[3] Ca dao Việt Nam.

[4] Nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc.

[5] Hai Bà Trưng ( Trưng Trắc, Trưng Nhị), năm 40, khởi nghĩa chống quân Hán, thu 65 thành ở Lĩnh Nam và xưng vương.

[6] Lý Thường Kiệt, danh tướng, Thái úy thời nhà Lý (1019 -1105) tiến quân đánh châu Ung, châu Khiêm thuộc tỉnh Quang Tây bên Trung Quốc ngày nay.

[7] Vua Quang Trung – Nguyễn Huệ (1753 -1792).

[8] Theo sử sách chính thống: Vua Đinh Tiên Hoàng không biết cha là ai.

[9] Vua Lê Hoàn không biết cha là ai. Nhờ núp dưới váy đàn bà, thông dâm với Hoàng hậu Dương Vân Nga, giết Vua và thái tử nhà Đinh mà có được thiên hạ, dựng nên triều tiền Lê.

[10] Vua Lý Công Uẩn không biết cha là ai.

[11] Thái thượng hoàngTrần Thủ Độ chỉ là tay chài lưới. Trần Thủ Độ cũng nhờ váy đàn bà mà cướp được thiên hạ của nhà Lý, dựng lên triều nhà Trần. Trần Thủ Độ còn thực hiện âm mưu tàn ác và thâm độc với dã tâm nhổ cỏ phải nhổ tận gốc đã giả vờ mời hoàng tộc họ Lý đến dự tiệc trên một sàn làm bằng gỗ, mà phía dưới sàn, ông ta đã đào sẳn một cái ao cắm đầy lê, chông. Rồi  khi hoàng tộc đang vui vẻ chè chén, ông ta ngầm sai người giật sàn, giết hoàng tộc họ Lý cả mấy trăm người.

[12] Vua Hồ Quý Ly, cũng chẳng biết là họ nào, lúc thì Hồ, lúc thì Trần, lúc thì Lê. Hồ Quý Ly cũng từ núp dưới váy đàn bà mà cướp được thiên hạ của nhà Trần, và cũng tàn ác không khác gì Trần Thủ Độ khi giết, chôn sống một lúc trên 400 tướng lĩnh, trí thức thức có lòng yên mến nhà Trần.

[13] Vua Lê Lợi thích giết và thui động vật, thíc ăn bốc bả.

[14] Vua Tây Sơn – Nguyễn Huệ, dân gian đến nay vẫn gọi Vua giặc cỏ, là đám giặc cỏ. Sử nhà Nguyễn cũng ghi như vậy. Đám giặc cỏ này tràn tới đâu là cướp, giết, hiếp tàn phá tan hoang xóm làng đến đó. Ai trái lệnh, lập tức, bị chém đầu. Chính vua Tây Sơn – Nguyễn Huệ ra lệnh cho quân sĩ đốt thành Thăng Long, thiêu trụi Lam Kinh, nơi chôn cất, thờ tự các đời vua Lê.

Vua Tây Sơn – Nguyễn Huệ còn cho người đào mồ mã lăng tẩm Tám đời chúa Nguyễn tại Thừa Thiên rồi ném hài cốt xuống sông. Riêng đối với họ Nguyễn Ánh, vua Tây Sơn – Nguyễn Huệ đã truy lùng tận diệt, người duy nhất còn sót lại là Nguyễn Ánh – Gia Long.

[15]  Vua Nguyễn – Gia Long cũng là ông vua giết người trả thù hèn hạ, dã man. Sau khi đánh bại được nhà Tây Sơn – Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh – Gia Long cho voi hành hình xé xác các tướng lĩnh và hoàng tộc nhà Tây Sơn. Nguyễn Ánh – Gia Long cũng đào mộ Quang Trung – Nguyễn Huệ và mộ Nguyễn Nhạc, lấy hài cốt cho vào cối giả nhỏ; đem sọ Quang Trung đựng vào một cái giành, lệnh cho quân sĩ đi qua phải đái vào cái giành đó.

[16] Lê Văn Thịnh (1050 -?), đỗ đầu kỳ thi Minh kinh bác học và Nho học tam trường năm 1075 thời vua Lý Nhân Tông.

[17] Vụ án Hồ Dâm Đàm (hồ Tây ngày nay) năm 1095.

[18] Thành ngữ Việt Nam.

[19] Nguyễn Trãi (1380 – 1442) quân sư cho Lê Lợi, danh nhân văn hóa thế giới, bị chu di cửu tộc trong vụ án Lệ Chi Viên năm 1442 thời Lê sơ.

[20] Nguyễn Bỉnh Khiêm, trạng nguyên thời nhà Mạc 1535, sống ở thời nhà Mạc và nhà hậu Lê.

[21] Lê Hữu Trác (1720- 1791) sống ở thời vua Lê chúa Trịnh.

[22] Nguyễn Khuyến (1835 -1909) trạng nguyên thời nhà Nguyễn..

[23] Nguyễn Công Trứ (1778- 1858), sống ở thời nhà Nguyễn.

[24]  Cao Bá Quát (1809- 1855), sống ở thời nhà Nguyễn. Câu đối lưu truyền trong dân gian: Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán/ Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường.

[25] Những thành ngữ, tục ngữ Việt Nam.

[26] Truyền thuyết mẹ Âu cơ một lúc đẻ ra một trăm quả trứng, là thủy tổ của người Việt Nam.

No comments:

Post a Comment