Tuesday, April 7, 2015

Tạm Biệt Mùa Đông! [Jeffrey Thai]



Cơn bão tuyết cuối cùng đã đến rồi đi đầu tháng trước. Cứ tưởng rằng Đông sẽ nhanh qua, nhưng ngờ đâu cái lạnh vẫn đeo bám dai dẳng không rời. Năm nay, tính ra tuyết ít rơi hơn năm trước, nhưng Đông đã bám chặt đất trời sớm và lâu hơn nhiều qui luật của trời đất. Đông vốn là lạnh, là băng giá, là bầu trời xám với không nhiều ánh sáng. Là khoảng thời gian con người trốn tránh thiên nhiên để cuộn tròn trong khoảng không gian riêng tư, nhỏ nhoi và ấm áp của riêng mình. Trong vỏ ốc biệt lập ấy, có ít nhất một người (viễn xứ) đã độc thoại với Đông về những ngày sống lạnh lẽo không ánh sáng mặt trời.

Tôi vốn sinh ra và lớn lên ở một thị trấn ven biển. Ở đấy, cũng như ở bất kỳ tỉnh thành miền Nam nào khác, không có mùa Đông. Tôi chỉ biết đến mùa Đông qua nhạc phẩm Đêm Đông của Nguyễn Văn Thương hay những vần thơ về mùa Đông Paris của Cung Trầm Tưởng trong bài thơ Chưa Bao Giờ Buồn Thế. Thuở ấy, sống giữa xứ gió và cát, hầu như nắng nóng quanh năm, nghĩ về mùa Đông cứ như nghĩ về một câu chuyện thần thoại, mà gần gũi nhất là câu chuyện về những vị thần tuyết của phim Liên Xô. Khoảng thời gian được cho là lạnh nhất trong năm có lẽ là lúc gió chướng về, mùa gần Tết. Mà chỉ lạnh vào ban đêm thôi, khi gió mang hơi nước từ biển về phả vào không gian phố thị.


Nếu không có gió, trời đêm chắc không lạnh nhiều. Mà gió không thổi êm ả như người ta thường hình dung về nó. Gió cứ hú và xoáy từng chập như tiếng hú của loài ma trơi lúc đang ráo riết tìm kiếm linh hồn người. Đêm có lạnh nhưng không se sắt thịt da. Tiếng gió hú làm đêm như trở nên thật sâu, lạnh và buồn nhiều hơn. Tôi đã sống ở đấy những đêm thật trẻ, nhưng lắng nghe tiếng gió thổi suốt canh thâu, tâm hồn đôi lúc thấy thật lạnh giá và già nua. Vậy đó, mà khi qua Tết rồi, gió không còn thổi nữa, trời oi bức hầm hập, thiếu vắng tiếng gió hú và cái lạnh thân quen, có cảm giác trời đất đã đánh mất đi đâu hết rồi vẻ nên thơ lãng mạn của nó.

Những năm tôi sống ở khu vực gần Bến Ninh Kiều để học đại học, gió chướng mỗi năm cũng thổi về lồng lộng từ con sông Hậu bao la. Ra ngoài Bãi Cát, có quán cà phê nhà lá không vách lớn rộng, gió từ sông Hậu thổi lên càng khuấy đảo đất trời, đưa tiếng nhạc vang vọng thật xa. Tôi cứ quen nghĩ thứ gió ấy là gió Đông. Giờ nghĩ lại, không biết hồi ấy, mình nghĩ rằng đó là thứ gió đến từ phương Đông, hay là gió của mùa Đông. Có lẽ là cái thứ nhất vì ở Tây Đô làm gì có mùa Đông. Nhưng cho dù nó chỉ là thứ gió đến từ phương Đông đi nữa, ít nhất chắc hẳn tôi cũng đã từng nghĩ rằng nó mang hơi lạnh của mùa Đông.


Cái lạnh se se của gió Đông mang chút sắc thái mùa Đông ấy có làm lòng người ít nhiều buồn hơn, nhưng cái buồn ấy không thảm thiết, thê lương. Thứ gió ấy còn có sức khơi gợi mãnh liệt một thứ nỗi nhớ thật mông lung. Tôi sống ở Sài Gòn, xa là thế mà mỗi năm khi mùa Tết về, gió vẫn tìm về, thôi thúc nhắc nhỏ tôi về sống lại những đêm thật trẻ với tiếng gió hú buồn hun hút suốt đêm thâu ở phố thị quê nhà. Mà cũng lạ, cho dù có bao nhiêu năm trôi qua, đêm về, gió vẫn hú và giật liên hồi ngoài kia, ngoài khoảng không gian không ánh sáng mà chỉ le lói chút ánh trăng lẻ loi. Đêm bây giờ không còn quá trẻ như những đêm xưa, nhưng lòng vẫn lạnh và vẫn khao khát bâng quơ đâu đó chút hơi ấm con người.

Ngày còn sống ở phố huyện, tôi vẫn thường nghe người ta hay kháo nhau: ở thành phố, nhà ai nấy sống, ít ai quan tâm đến ai. Sau khi đã sống qua đủ các thành phố lớn nhỏ, nhìn lại, tôi thấy con người với nhau cũng không đến nỗi quá vô tình. Như gió Đông quê nhà vậy đó. Lạnh thì có chút lạnh đấy, nhưng không lạnh đến nỗi tê tái thịt da. Cái lạnh ấy chẳng giết chết ai bao giờ. Con người thuở ấy dẫu có thể có chút bạc bẽo, vô tình, nhưng không đến nỗi tuyệt tình nhau.



Rồi tôi không còn sống với gió Đông nữa. Sài Gòn, Cần Thơ, các trại tị nạn Đông Nam Á trở thành các địa danh của một dĩ vãng xa mờ. Tôi làm kẻ tha hương sống với những đêm Đông thực sự ở phương trời Bắc Mỹ. Mùa Đông đầu tiên khi tôi đến Mỹ này, cách đây gần hai thập kỷ, có lẽ là mùa Đông tôi nhớ nhiều nhất. Cái lạnh tái tê và băng giá nơi này khiến con người chỉ còn lo nghĩ đến việc đối phó với nó để bảo toàn tính mạng chứ chẳng còn tâm trí ở đâu để liên tưởng đến những hình ảnh mùa Đông lãng mạn. Lái chiếc xe Toyota Camry vừa mới mua (và cũng vừa mới biết lái) qua các ngả đường xa lạ để kiếm một nơi ở trọ mới (không phải chung đụng với ai) giữa những ngày Đông băng giá là hình ảnh tôi nhớ đến bây giờ. Khoảnh khắc ấy tôi nghĩ về người lữ thứ đêm Đông không nhà của Nguyễn Văn Thương; có khác chăng là người lữ thứ ấy không phải lê từng bước chân mà đi.

Từng mùa Đông cứ thế mà đi. Có khi tuyết rơi nhiều. Có khi tuyết không rơi. Tôi không còn nhớ về ngọn gió Đông quê nhà gợi nhớ mơn man mỗi bận Tết về. Tôi cũng không còn nghĩ về những hình ảnh mùa Đông lãng mạn như hình ảnh người lữ thứ đi giữa đêm Đông, hay hình ảnh một nhân vật tiểu thuyết Nhật bước chân đi giữa một chiều tuyết rơi dày về phía một cái hồ băng giá…. Điều lo nghĩ bây giờ là phải chuẩn bị làm sao để xe cộ an toàn và cầu mong không có cơn bão nào gây ra cúp điện. 


Nghĩ lại những mùa Đông đầu, tôi thấy mình thật ngây thơ làm sao. Bị cúp điện nhiều ngày, chỉ biết trân mình mà chịu, cứ quấn vào mình thật nhiều lớp quần áo và bịt kín mọi khe hỡ quanh nhà mà sống giữa một cõi không gian buốt giá đến không làm gì được. Sao không đến nghỉ tạm tại một hotel hay một motel nào đó nhỉ? Có tốn kém, nhưng lại thoải mái hơn biết bao nhiêu. Không, tôi đã không hề nghĩ đến điều đó. Mới qua Mỹ, tôi quí mến những đồng tiền mình kiếm được, và tôi cũng nói với mình rằng: Đây là lúc mình sống thực sự với mùa Đông trong tâm tưởng của một thuở xưa nào.

Những mùa Đông lần lượt trôi đi. Với chiếc xe Honda mua mới tinh, tôi chưa hề bao giờ gặp rắc rối gì về xe cộ giữa những ngày Đông. Bây giờ, chiếc xe ấy đã cũ và trở thành một vật thân quen, nhưng nó cũng vẫn đủ đảm bảo an toàn, và chưa hề gây ra phiền toái. Tôi thấy mình yên tâm đón những mùa Đông đến. Có lẽ ai cũng nghĩ rằng, Đông năm nào cũng thế, cũng vẫn lạnh, buốt giá và buồn như nhau. Nhưng với tôi, thì không. Đông đến, rồi đi, nhưng dường như, từ một lúc nào đó đã lâu, nó bỗng chợt như có linh hồn. Tôi cảm nhận ở Đông một uẩn khúc chôn sâu không dễ gì bày tỏ. Mỗi năm, Đông lại đến sớm và ra đi muộn hơn năm trước.

Đã có những mùa Đông gần đây, tôi có cảm giác nó đã trở thành miên viễn, nghĩa là mãi mãi là như thế, không ra đi, không tan biến nữa bao giờ. Đông không chỉ lạnh ở trời đất, Đông còn lạnh nhiều hơn ở lòng người. Tình người, tình đời là cả một mùa Đông buốt giá. Cả vũ trụ này tự bao giờ đã là một khối băng khổng lồ. Tôi chợt nhớ về những ý nghĩ ngây thơ ngày bé của mình về câu chuyện những người hàng xóm ở thành thị chẳng bao giờ quan tâm đến nhau và thấy điều đó thật buồn cười. Có vô tình và bạc bẽo với nhau đến mấy cũng chưa bao giờ đến nỗi tuyệt tình mà!


Nơi này, tôi đã sống nhiều năm bên cạnh những người hàng xóm chẳng bao giờ nói chuyện với nhau, hoặc thậm chí, còn không biết mặt nhau. Tôi đã làm việc với những con người trong nhiều năm, mà khi ra đi, không buồn nói một lời từ biệt, cứ như thể, chẳng hề biết, chẳng hề quen. Gặp nhau, biết nhau, nói chuyện với nhau, chỉ là một con số không vô nghĩa. Con người vội vã đi qua nhau như những sinh vật vô tri, vô giác. Đôi lúc, tôi đã thử kiểm tra ý nghĩ của mình thông qua nhiều kinh nghiệm mới; nhưng rồi chỉ để nhận được một sự khẳng định còn chắc nịch hơn. Tôi không còn nghi ngờ gì về bản chất vô tâm, ích kỷ và bạc bẽo, thậm chí độc ác, của con người; cho dù, nó có thể ẩn giấu khéo léo dưới những hình thức giả dối phù phiếm.

Ngày ấy, tôi yêu thích vô cùng những vần thơ này của nhà thơ Tagore:

Ngày xưa, tôi chưa ra biển bao giờ,
Tôi thấy biển xanh màu xanh phẳng lặng.
Ngày xưa, tôi chưa yêu bao giờ,
Tôi thấy tình yêu toàn là mộng.


Bây giờ, tôi đã ra biển (từ lâu) và sống với biển khơi. Nghĩ về ngọn gió Đông ngày xưa, mới thấy nó mộng mị làm sao. Cái lạnh của gió Đông ngày ấy chỉ như trêu giỡn, đùa chơi. Nó chẳng làm hại hay giết chết ai bao giờ. Nó chỉ đủ lạnh để dệt nên những vần thơ lãng mạn của những tâm tình đơn côi. Nó, thậm chí, còn ru đời cho nên thơ hơn với một chút buồn man mác của những chiều gió lạnh.


Bây giờ, tôi đã sống với mùa Đông. Đông không còn xa lạ như những ngày đầu tôi mới đến. Tôi không còn phải quá đề phòng mỗi bận Đông về. Những ngăn cách, phòng chừng đã trở thành những thân quen, gần gũi. Đã nhiều lần tôi độc thoại cùng Đông và nghe trong thinh không hoang vắng tiếng hồi vọng vang vang. Thực ra, Đông có thể giết chết con người, nhưng Đông không hề cố ý; chẳng qua chỉ là qui luật của trời đất mà thôi. Hãy lắng nghe, Đông sẽ trần tình, và thậm chí, còn nói về những bí ẩn thẳm sâu trong đời sống con người.

Đã gần gũi và thân quen thế, nên mấy ngày qua, trời không còn lạnh nữa; chợt có cảm giác như có điều gì đó lạ kỳ. Thực ra, có gì đâu. Đấy chỉ là mùa Xuân mới đến thế thôi.

Không còn mùa Đông à? Rồi sẽ ra sao? Câu hỏi lạ kỳ nhỉ! Có ai chết vì mùa Đông qua đi bao giờ. Chết thì không. Nhưng hụt hẫng thì có. Vì đã quá gần gũi, quá thân quen; và thậm chí, còn nợ nần nhau. Tôi còn nhớ tôi còn nợ Đông cả một giấc mộng Alaska. Nợ mà không trả hay chưa trả, sao lại có thể bình yên.

Và cũng vì đã quá gần gũi, quá thân quen, nên khi rời xa, không thể không nói lời tạm biệt. Sống với nhau, không nên đến nỗi quá vô tình.

Tạm biệt mùa Đông!

06/04/2015
Jeffrey Thai




No comments:

Post a Comment