Trích bài viết về tác phẩm Vòng Tay Học Trò của Jeffrey Thai:
Tôi đã đọc rất nhiều tác phẩm của Nguyễn Thị Hoàng cách đây rất lâu. Lâu đến nỗi không còn nhớ đã đọc những tác phẩm gì và đọc như thế nào. Nhưng văn phong súc tích, gợi cảm và giàu hình ảnh của bà thì không thể quên. Cũng như không thể nào quên tác phẩm đã làm khuấy động dư luận giới văn chương "Vòng tay học trò" của bà - tác phẩm mà khi ra đời đã bị dư luận còn mang nặng tư tưởng Khổng Giáo lúc bấy giờ của thập niên 60 của thế kỷ trước cho là vô luân. Dĩ nhiên tôi sẽ không đề cập đến tác phẩm này cũng như mối quan hệ tình cảm trong nó với cái nhìn lỗi thời, lạc hậu và phi nhân bản đó.
Tình cảm giữa con người với con người vốn là những xúc cảm thiêng liêng phát xuất từ trái tim. Nó không biết đến tuổi tác, địa vị, giai cấp và thậm chí cả giới tính. Với quan niệm đó, với tôi, "Vòng tay học trò" là một khái niệm tình cảm đẹp trong một bối cảnh tình yêu lãng mạn và thánh thiện của chốn học đường. Chỉ tiếc rằng nó quá đẹp và mỏng manh để có thể tồn tại và lớn lên trong cái thực tế cuộc sống vốn luôn đầy những thử thách chông gai và những định kiến xã hội khắc nghiệt.
Jeffrey Thai
Bài viết về Vòng Tay Học Trò của tác giả Minh Thạnh đăng trên trang mạng Pháp Luân của Phật Giáo:
Tên tiểu thuyết “Vòng tay học trò” được trích từ lá thư của học trò – Nguyễn Duy Minh gởi cho cô giáo Tôn Nữ Quỳnh Trâm: “còn em, một học trò, mà tàn ác nhất là học trò trường cô dạy, hai bàn tay trắng không biết đếm tiền, chỉ biết đánh lộn, đánh vỡ hết những gì làm mình khổ đua, với vòng tay học trò không bao giờ ôm giữ nổi đời cô”.
TIỂU THUYẾT “VÒNG TAY HỌC TRÒ” CỦA NGUYỄN THỊ HOÀNG
TỪ GÓC NHÌN PHẬT GIÁO VẤN ĐỀ TÂM TỪ VÀ ÁI DỤC
Vòng tay học trò của Nguyễn Thị Hoàng
Đọc thấy tựa tiểu thuyết Vòng Tay Học Trò của Nguyễn Thị Hoàng đăng trên một tập san Phật giáo, ắt có nhiều người phải giật mình, nhất là những người trưởng thành trong thập niên 70. Đây là một tác phẩm, mà ngay khi ra đời, đã bị dư luận xã hội và giới nghiên cứu văn học lúc bấy giờ ở miền Nam Việt Nam coi là có vấn đề đạo đức. Đến sau năm 1975, các nhà lý luận phê bình xếp nó vào loại các tác phẩm thuộc dòng văn học đồi trụy, và coi đây là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho dòng văn học này. Sở dĩ như thế là vì, tác phẩm đề cập đến một vấn đề “động trời”, mối tình giữa học trò và cô giáo.
Tên tiểu thuyết “Vòng tay học trò” được trích từ lá thư của học trò – Nguyễn Duy Minh gởi cho cô giáo Tôn Nữ Quỳnh Trâm: “còn em, một học trò, mà tàn ác nhất là học trò trường cô dạy, hai bàn tay trắng không biết đếm tiền, chỉ biết đánh lộn, đánh vỡ hết những gì làm mình khổ đua, với vòng tay học trò không bao giờ ôm giữ nổi đời cô”.
Quả thật, Vòng tay học trò là một tác phẩm đáng bị phê phán. Sau Nguyễn Thị Hoàng, đến nay đã gần nữa thế kỷ, theo chỗ chúng tôi biết vẫn chưa có một tác giả nào trở lại vấn đề gai góc, nhức nhối này ở cấp độ như Nguyễn Thị Hoàng.
Tuy nhiên, khoa lý luận phê bình văn học hiện đại, từ lý thuyết tiếp nhận, cho phép khảo sát sự tồn tại của tác phẩm văn học nghệ thuật từ nhiều góc nhìn khác nhau, trong các loại người đọc khác nhau, từ những thế giới quan, nhân sinh quan khác nhau. Tác phẩm văn học nghệ thuật không chỉ có độc nhất một sự cảm nhận, mà nhiều và rất nhiều. Những người theo Khổng giáo coi Vòng tay học trò là một tác phẩm vô luân, phá vở đảo lộn quan hệ thầy trò. Bên cạnh đó, có người coi Nguyễn Thị Hoàng với Vòng tay học trò là một cây bút triết học hiện sinh. Có người cảm thông Nguyễn Thị Hoàng như một biểu hiện trong văn học của phân tâm học do Freud chủ xướng…
Sự cảm nhận tác phẩm cũng biến thiên theo trục thời gian. Cũng một người, cũng một tác phẩm, nhưng lần đọc ở lứa tuổi trung niên sẽ có cảm nhận khác với khi đọc ở lứa tuổi thanh niên. Người đọc khi chưa lập gia đình sẽ có cảm nhận khác với khi đã lập gia đình, rồi khi đã làm cha, làm mẹ.
Riêng đối với người viết, sau 20 năm, khi đã có một trình độ Phật học nhất định, đọc lại Vòng tay học trò của Nguyễn Thị Hoàng, người viết đã có một cảm nhận hoàn toàn khác trước. Nếu 20 năm trước, Vòng tay học trò lôi cuốn người viết bài này bằng một bối cảnh tình ái mới lạ, những diễn biến tâm trạng phức tạp, đầy u uẩn của tình yêu, thậm chí là một sự thôi thúc thử nghiệm (như có nhà phê bình phê phán về những tác hại có thể có của tác phẩm), thì 20 năm sau, đối với người viết, bài này, tác phẩm Vòng tay học trò là một trường hợp tiêu biểu sự đau khổ khủng khiếp cùng tột khi con người bị lôi cuốn vào vòng ái dục. Trong Vòng tay học trò, hai nhân vật chính là cậu học trò Minh và cô giáo Trâm bắt đầu là địa ngục của nhau khi họ bắt đầu yêu nhau. Đây là một sự thể minh họa sống động cho quan điểm ái dụ chính là đau khổ, một trong những quan điểm cơ bản của đạo Phật. Đặc biệt, nếu nhìn tác phẩm Vòng tay học trò từ góc độ Phật giáo, chúng ta có thể phát hiện thấy ý đồ của tác giả thể hiện sự khác biệt giữa tâm từ và ái dục, với những kết quả đối lập tương ứng của nó. Đây là điều mà chúng ta muốn san sẻ với bạn đọc bằng cảm nhận chủ quan và trên lý thuyết tiếp nhận của khoa học lý luận phê bình văn học hiện đại. Từ đó, đi đến một kết luận về chủ đề tư tưởng của tác phẩm: yêu chính là khổ, nhất là khi người ta yêu trong một hoàn cảnh đặc biệt như các nhân vật của Vòng tay học trò.
Từ cô giáo và học trò đến người tình với người tình: chặng đường từ tâm từ đến với ái dục.
Thời gian trong Vòng tay học trò chỉ gói gọn trong bài tháng. Trong vài tháng đó, hai nhân vật chính đang trên bến bờ của cuộc sống bình lặng đã cùng lao xuống, để ngụp lặn, chới với trong vũng lầy ái dục, và từ đó mang trong mình những vết thương không thể chữa lành.
Theo trục thời gian, có thể chia câu chuyện làm ba phần: phần một là phần cô giáo Trâm an ổn trong cuộc sống mới cô độc ở Đà Lạ và quan hệ với học trò trên cơ sở tâm từ: cô giáo với học trò, người chị với các em và có thể người mẹ với các con. Tâm từ và tình yêu trong Phật giáo được phân biệt rất rõ. Một đàng là vị tha, là ban bố, là chan hòa và hệ quả là an lạc. Còn một đàng là vị kỷ, là thu vén, là chiếm đoạt, và hệ quả là đau khổ, là nghiệt ngã,… Phần một của Vòng tay học trò là tâm từ và hệ quả của Tâm từ. Phần hai, học trò và cô giáo yêu nhau trong khốn khổ và phần ba, học trò và cô giáo chia tay nhau trong đau đớn là ái dục và hệ quả của ái dục.
Chương một của tác phẩm là phần thể hiện tâm từ và hệ quả của tâm từ. Cô giáo Tôn Nữ Quỳnh Trâm từ bỏ cuộc đời ngụp lặn trong những cơn hoan lạc thâu đêm suốt sáng ở Sài Gòn và bắt đầu cuộc sống mới trong vai trò cô giáo ở Đà Lạt, như một nạn nhân của ái dục. Trâm chưa yêu ai thật sự trong quảng đời trước của mình, nên chưa ý thức rõ ràng về địa ngục ái dục, nhưng cũng lờ mờ cảm nhận thấy hơi hám của nỗi đau khổ vọng ra từ địa ngục ái dục “những mối tình kỳ dị khác thường, liều lĩnh, bất chấp. Những người đàn ông, những gã con trai. Nàng nhớ lại những tên người trong ký ức như người lính thắng trận kiểm điểm xác chết của phe địch bỏ lại ở chiến trường. Văn tỷ phú. Marc giáo sư đại học. Jonh sĩ quan Mỹ. Tuấn phi công. Francois ký giả. Hồng nhà văn. Linh con nhà giàu phá sản. Và một khối thằng sinh viên. Một khối thằng học trò choai choai mới lớn say mê của cấm như khoái làm chuyện siêu phàm. Bây giờ họ là những xác chết. Mỗi tình yêu là một bông hoa đã úa tàn. Mỗi ngày vui là một chiếc là vàng rơi rụng. Vì Trâm đã chán ngán, đã mệt mỏi, đã lìa xa một nữa con đường lang bạt đó. Đã bỏ cái thành phố hai mặt sống và chết, mê và chán, xấu và tốt đó. Nàng bỏ đi như một từ khước. Và như một lần trốn chạy. Từ khước đi những thú vui buông thả đưa tới lỡ lầm cay đắng, đưa tới trống không giằng giặc tủi hờn. Lẫn trốn những đòi hỏi xôn xao của chính mình, của một bản chất sôi nổi thèm sống, thèm yêu đến tột cùng đến vô bờ bến.
Trâm bắt qua một nhịp đời khác không tìm chuyển tiếp. Đà Lạt như một nơi ngơi nghỉ vùi chôn đời đời. Cuộc sống đang sôi trào bỗng dưng lắng đọng lại như những thước không gian câm nín dày đặc sương mù. Lẽ ra sau khi giã từ Sài Gòn ồ ạt, Trâm phải tập dần quen với cuộc đời yên ổn trầm lặng đã, rồi mới lên đây. Mà không. Hai nhịp sống tương phản nối liền nhau, và tâm hồn nàng đột ngột chịu dựng sự dao động mãnh liệt của hai thế giới, hai nhịp đàn khác điệu. Như giữa khí hậu nóng bức khô khan của Sài Gòn và lạnh lẽo ẩm ướt của Đà Lạt không có miền trung gian.
Nhưng lần đầu tiên lên đây, Trâm tưởng mình có thể nguôi quên. Vì lúc đó, cái gì cũng mới lạ tốt đẹp. Những bài làm đầu tiên của học trò, nàng chấm đêm đêm. Như con đường viền quanh lũng thấp đồi cao dẫn đến trường học, như vầng mặt trời sáng chói xé nát màn sương mai, tưng bừng nhuộm hồng hoa cỏ. Như những bạn đồng nghiệp mới quen, những khuôn mặt học trò còn xa lạ nhìn lên ngơ ngác. Cho nên, Trâm đã nguôi quên chặng đường đua cũ, dừng lại bằng lòng chính mình, bằng lòng xung quanh và định tâm sửa đổi lại đời mình hàn gắn những đổ vỡ, nối tiếp những dự định chưa thành. Trâm ngầm giao ước với cuộc đời là nàng sẽ phải sống xứng đáng, từ lúc bước vào ngưỡng cửa mới còn lạnh lùng và xa lạ của nghề dạy học.”
Trong tác phẩm, Nguyễn Thị Hoàng cho nhân vật cô giáo Trâm đến ở tại một biệt thự hoang vắng, chìm đắm trong nỗi buồn cô đơn. Nhưng trong sự cô đơn ấy, Trâm dần dần có được đôi chút nào đó bình an. Tâm đi dần đến tâm từ trong quan hệ với học trò. Trong tác phẩm, Nguyễn Thị Hoàng xây dựng chi tiết Trâm cho những đứa học trò lỡ đường đói khát vì mưa gió ngủ đêm lại trong nhà mình và hồi tưởng lại một sự kiện khác, Trâm săn sóc đứa học trò bất thường đến xin cô thuốc.
“Thế nó xin mình thuốc có lẽ vì cảm tình, vì thấy mình thân thuộc hơn những người khác và có thể làm dịu cơn đau của nó. Nó cầm chai thuốc và bông băng, định vào phòng thằng Tuân băng bó lấy một mình. Trâm thấy máu thấm ra ngoài vải quần áo kaki màu xanh đã bạc của thằng học trò, tự nhiên thấy thương xót thế nào. Nàng bảo, em xăng quần lên một tí, cô buộc thuốc cho. Nó e dè nhìn Trâm, thưa cô, em làm lấy được, phiền cô quá. Trâm nghiêm giọng, không được, ngồi xuống ghế kia, đưa chân ra. Rồi nàng gối cong xuống sàn nhà, lấy alcoll Iodee chấm vết thương và xức thuốc, băng bó cho nó. Nó ra về, Trâm thấy vừa băn khoăn vừa lâng lâng sung sướng trong lòng. Dù việc làm nhỏ nhặt không đáng kể, nhưng ý nghĩa lại đẹp. Trâm có cảm tưởng như không phải chút thuốc miếng bông đó ngày kia sẽ làm lành vết thương đứa học trò tội nghiệp, nhưng sự săn sóc ân cần và dịu dàng của nàng làm lành những vết thương đau. Như thế, nàng vẫn có ích, vẫn có thể sống cho sống vì kẻ khác và vẫn sung sướng được quên mình để đem cuộc sống góp đời. Ngày xưa thì không thế, Trâm ích kỷ, chỉ tận hưởng, chỉ cầu hạnh phúc cho mình, chỉ muốn chiếm cho bằng được những gì mê thích, muốn được mà chẳng hề cho đi. Nhưng sự sung sướng được thỏa mãn đó mong manh và ngắn ngủi vô cùng. Trong sự chiếm đoạt, không phải người khác mà chính mình là kẻ bị tàn phá. May là đời Trâm chuyển về một nhịp khác, nàng đã sáng suốt nhận định ra sự việc, một mình tiến tới, tìm ra một thái độ hợp lý hơn để tồn tại trong tương quan cá nhân và quần chúng. Dù những cái vui do lòng hi sinh mang lại có khi biến thành tủi buồn xót xa, vì kẻ khác, còn thân phận mình, ai thương, nhưng vẫn còn âm vang mãi mãi trong lòng như một nguồn an ủi lớn. Vậy mình tìm ra một con đường tốt, cứ việc đi, để ý làm gì những lời đàm tiếu quanh co của thiên hạ. Trâm đã thắc mắc nhiều về việc nhỏ mọn là săn sóc đứa học trò bị thương. Dù sao mình cũng là con gái, nó là con trai, mình là cô giáo nó, hơn nó rất nhiều tuổi, nhưng mình cúi người xuống nâng lấy cái chân đau của nó, săn sóc thật âu yếm, thật dịu dàng yêu thương. Sự đối xử đó, cử chỉ mình lúc đó có thể bị người ngoài xuyên tạc. Nhưng chỉ mình biết đó là lòng thương giữa con người với con người. Nó hay mình, hay kẻ khác mang vết thương đều đau đớn như nhau. Kẻ lành phải san sẻ cái đau của người đau, bằng cách này hay cách khác. Mọi sự xấu hay tốt do ý nghĩ sâu kín của mình thôi, đâu phải trong hành vi.
Bây giờ đến lượt bốn đứa học trò trong đêm mưa gió đến xin ở lại nhà một cô giáo trẻ độc thân. Bọn nó trẻ con, nhỏ tuổi. Trâm là người lớn “già đời” rồi. Nhưng đôi bên khác phái. Ai biết đâu là đâu. Một ngày nào đó, người ta sẽ dóng lên một hồi chuông, cô giáo đó à, ở một mình mà ban đêm để học trò trai đến ở lại. Phải cứ chìu theo thứ dư luận ngu xuẩn hẹp hòi như thế đó, rồi lắc đầu xua đuổi cả bốn đứa học trò nghèo rách nát, xác xơ, đói khát ra ngoài đêm mưa gió thế này, để được tiếng là nề nếp, đứng đắn, khuôn khổ. Không thể có nhân đạo trong thứ luân lý giả tạo đó được…” (chương một, Vòng tay bè bạn)
Đó không gì khác hơn là tâm từ của đạo Phật. Không chút vướng bận ích kỷ, không đòi hỏi ân nghĩa, tư lợi, tình yêu đó không phải là ái dục. Khi ấy, nhân vật Trâm tràn trề niềm an lạc, hoan hỷ, thảnh thơi.
Những giữa tâm từ và ái dục chỉ là một khoảng cách mong manh. Đối với đạo Phật, tu chính là giữ được cái khoảng cách mong manh đó. Nếu không, tâm từ sẽ biến dạng thành ái dục một cách dễ dàng và nhanh chóng. Từ chỗ đứng của đạo Phật, chúng ta sẽ dễ dàng nhận thấy sự chuyển hóa đó khi soi vào tác phẩm. Cuộc đời không thể tách khỏi đạo, vì chính từ cuộc đời mà đạo được sinh. Vòng tay học trò là một câu chuyện đời, nhưng diễn biến qui luật mà đạo đã chỉ ra. Cô giáo Trâm đi tới ngả rẽ giữa địa ngục với “thiên đường” sau những ngày tháng cho Minh ở trọ:
“Lên hết thang lầu, Trâm đứng lặng nhìn xuống vùng bóng tối dưới kia, khuôn mặt Minh thoắt buồn thoắt vui hiện lên ở đó. Phiền rồi đây. Thật cây muốn lặng, gió chẳng dừng. Hay là mình nói Minh dọn đi. Vô lý, nó có làm gì, có lỗi gì đâu nào,… Một thoáng, Trâm vụt nghĩ đến gia đình, đến những người quen biết, đến công việc, đến những dự định tương lai, đến vòng vây tù đày eo hẹp khe khắt của cuộc đời. Rồi Trâm nhìn xuống những nấc thang lầu đen thẫm trong đêm khuya như một chiếc cầu giao nối địa ngục với thiên đường. MÌnh xuống hay lên. Bây giờ chiếc cầu thang vô tri ngủ yên ở đó. Và Trâm bỗng nghe vang vọng tiếng giày thoăn thoắt của Minh qua từng nấc thang và tiếng reo của nó mỗi lần bãi học” (Chương 3, Vòng tay học trò).
Cuối cùng là tình yêu và cũng là địa ngục. Nói Vòng tay học trò là một tác phẩm đồi trụy thì không hẳn, vì hầu như những xúc cảm nhục dục không phải là âm hưởng chính. Tác phẩm khá trong sạch về mặt này. Nhưng điều chính yếu là cả hai bên đều muốn sở hữu cho riêng mình (điểm cơ bản phân biệt tâm từ và tâm ái) cái mà mình không thể sở hữu. Hai nhân vật chính lao vào cuộc tình như hai con thiêu thân, mà đọc Vòng tay học trò bằng cái nhìn Phật giáo, chúng ta nhìn nhận và lý giải, từng được từng hành động, cử chỉ của họ khi con quỷ ái dục nhập vào học và đẩy tâm từ ra khỏi cô giáo muốn làm lại cuộc đời: “Như tôi cũng đã để ngoi lên, tôi thèm ánh sáng dù vẫn linh cảm suốt đời bóng tối vây quanh. Chỉ cần có ảo tưởng bắt gặp một ánh đèn le lói trong đêm đen sâu hút. Ở đoạn đời này, với tôi, Minh là thứ ánh sáng mong manh và có thật đó hay rồi Minh cũng chỉ là bóng đêm, đời là vực sâu và chúng mình sẽ cùng mù lòa rơi xuống (lời của nhân vật Trâm, chương bảy, Vòng tay học trò).
Và từ đó trở đi, là vực sâu, là địa ngục. Một ca điển hình minh chứng cho lời Phật dạy: ái dục tất sẽ đưa đến đau khổ. Bằng lời văn sáng tạo giàu hình ảnh và độc đáo, Nguyễn Thị Hoàng đã miêu tả chi tiết thứ địa ngục đó trong đoạn sau của tác phẩm: “mắt Trâm bỗng nhức buốt trước một vùng tuyết băng trắng xóa không còn cây cỏ xanh tươi. Không còn màu trời mờ đục thủy ngân gần gũi trên đầu. Không còn dấu vết của những sinh vật thoáng qua. Tôi rơi vào khoảng không. Tôi bị ném vào một vực sâu không đáy. Lạnh buốt khắp xương da cho đến phút giây bị đập nát xuống một bờ đá âm u nào đó. Mảnh vỡ những hành tinh ngập lụt thi hài tôi. Tôi quằn quại với những vết thương soi thấy bóng mình một lần cuối lờ mờ trong hồ nước băng giá như gương” (Chương bảy, Vòng tay học trò).
Hay trong một đoạn khác:
“… còn tôi ở lại, quằn quại ngày đêm trên sân khấu vắng ngắt này, dở sống dở chết, mang án tử hình xử trảm suốt đời như thế. Giờ em đi rồi. Một phần đời tôi cũng bỏ đi theo. Còn gì không trong căn phòng nhỏ bé đó? Tất cả lần lượt lách mình ra khỏi cửa đời tôi. Hoặc âm thầm lẫn trốn. Hoặc vang động ồn ào. Ồn ào như em đang bỏ đi. Tiếng động chạm của ghế bàn đồ đạc. Tiếng ầm ầm của một góc địa cầu này sụp đổ lên tôi. Tiếng đá rơi và đất đổ, sóng thét và gió gào giờ nguyệt tận. Tôi biến thành dã thú bị thương quay cuồng điên dại trong cõi đời rộng lớn không còn lối thoát. Hai mắt mở to sâu hút dại khờ trong khoảng trống không này. Bóng tối xiêu đổ gục xuống như thân cây xét đánh. Đầu tôi chỉ còn là xương sọ rạn nứt điên mê. Mái tóc hoang biến thành rừng cây chằng chịt. Mỗi cành cây biến thành con trăn lớn, trườn mình khắp mặt đất bốc cháy này quấn lấy chân em…” (Chương tám)
Địa ngục ở đây không có dao kiếm, lửa đỏ, vạc dầu, dùi nung… như trong kinh Phật. Nhưng nó có khác gì thế. Có khác chăng là ở chỗ nó xuất hiện và dâng tràn rồi nhấn chìm dòng tư tưởng của nhân vật trong đớn đau cùng tột. đây cũng không là định mạng, mà là nhân quả. Khổ đau và ái dục đi đôi như là bóng với hình. Và địa ngục chẳng chờ ngày mệnh chung, mà nó đến ngay sau những phút giây hoan lạc. Vòng tay học trò mang trong nó cả một thế giới hình tượng không khác gì những câu kinh Phật. Ái dục rồi sẽ sinh lo âu, ái dục rồi sẽ sinh đau khổ.
“Em nói dối một lần, cô giết em một đời, cô biết không?” Cậu học trò mới lớn chưa kịp sống nhưng như đã chết sau cuộc hành trình ngay dại. Còn cô giáo Trâm mang vết thương đau nhức suốt đời “Chỉ còn vết thương cuối cùng là trí nhớ. Đau nhức mỗi lần thấy bóng mình xưa lang thang giữa điều tàn kỷ niệm. Đau như nàng về thăm Đà Lạt một chiều tháng năm” (chương mười một).
Một nhìn nhận mới từ một cuốn sách cũ
Không có tham vọng “đạo đức hóa” một tác phẩm được coi là có vấn đề đạo đức, chúng tôi chỉ mong đưa ra một số suy nghĩ riêng về tiểu thuyết Vòng tay học trò từ góc độ của một người theo đạo Phật, và đặt nó bên cạnh ý kiến của những nhà phê bình văn học Mác-xít hay theo chủ nghĩa hiện sinh, để bạn đọc tham khảo và cùng suy gẫm.
Đã từng được nghe Thiền sư Nhất Hạnh phân tích thơ tình của Nguyễn Bính, Huy Cận, Xuân Diệu, … từ góc nhìn Phật giáo, chúng tôi vẫn ôm ấp trong lòng ý tưởng phê bình tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Thị Hoàng từ nền tảng nhân sinh quan Phật học.
Vòng tay học trò là một tác phẩm quan trọng trong văn học miền Nam Việt Nam 1954-1975. Nó quan trọng không phải chỉ vì việc làm xôn xao dư luận mà còn là vì giá trị nghệ thuật đặc biệt của nó. Không phải ngẫu nhiên mà trong lời nói đầu bộ Lịch sử văn học Việt Nam của giáo sư về văn học Việt Nam người Nga N.I.Nikulin vừa mới được phiên dịch và xuất bản, trong các tác giả ở Sài Gòn mà giáo sư Nikulin nghiên cứu, có tên Nguyễn Thị Hoàng bên cạnh các tên tuổi Lê Vĩnh Hòa, Võ Hồng. Còn tên tác phẩm chỉ thấy việc Vòng tay học trò. Có lẽ giáo sư tiến sĩ Mai Quốc Liên, tác giả lời nói đầu của bộ sách trên muốn tránh từ “nghiên cứu” nên ông dùng từ “Thẩm định”[1]. Mà quả thật, Vòng tay học trò quả là tác phẩm cần và xứng đáng được thẩm định, tái thẩm định và tiếp tục thẩm định.
Bài viết này là một cố gắng góp phần vào việc thẩm định đó đối với tác phẩm Vòng tay học trò nổi tiếng với những vấn đề.
Minh Thạnh
Chú thích:
1. Giáo sư tiến sĩ khoa học N.I.Nikulin: Lịch sử văn học Việt Nam, Nhà xuất bản Văn học và Trung tâm nghiên cứu quốc học, 2007, tr.10.
Phỏng vấn Nguyễn Thị Hoàng - Người Yêu Của Đấng Trời:
Trong các nhà văn nổi tiếng của miền Nam trước 75, Nguyễn Thị Hoàng mang trên thân định mệnh một cuốn tiểu thuyết. Chưa một nhà văn Việt nào được cácthế hệ thanh niên say mê và tác phẩm đầu tay đem đến tiếng tăm lẫn sóng gió nhiều như Nguyễn Thị Hoàng. Vòng Tay Học Trò, thập niên 60, đã biểu trưng tâm tình nổi loạn của cả một thế hệ trẻ trong một thời đại bắt đầu làm quen với văn chương ‘‘hiện sinh’’, trong tình yêu và trước xã hội, với khao khát một cách sống độc lập. Từ Vòng Tay Học Trò đến nay đã gần 40 năm, Nguyễn Thị Hoàng trở lại tiểu thuyết với tác phẩm Người Yêu Của Đấng Trời. Bài phỏng vấn dưới đây, thực hiện qua điện thư, sẽ giúp bạn đọc phần nào biết thêm mối tương quan được tác giả xem như một ánh chớp của tâm thức, trong cuộc đi tìm và bắt gặp, giữa Nguyễn Thị Hoàng và Người Yêu Của Đấng Trời.
1.
MN: Từ nhiều năm nay, ngoài Nhật Ký Của Im Lặng, ít hoặc hầu như không thấy xuất hiện tác phẩm của Nguyễn Thị Hoàng trên văn đàn Việt Nam trong lẫn ngoài nước, xin chị cho độc giả Hợp Lưu biết lí do của sự vắng mặt này.
NTH: Rất cám ơn câu hỏi đã minh định được tình thế của NTH: không thấy xuất hiện tác phẩm của NTH trên văn đàn VN Trong lẫn Ngoài nước. Một tác phẩm có mặt từ ba yếu tố: nghĩ (hay cảm), viết, và in. Nghĩ thì như thở, càng bị rượt đuổi vây khổn, càng dập dồn, chồng chất. Viết ra thì khó liên tục nếu ăn ở không yên và chèo chống không ngừng với mọi vấn đề. Nếu vượt hai điều trên được, lại phải đứng dừng trước bức tường thứ ba: in ra, ngoài khả năng của một tác giả tận cùng đơn độc, trong mọi nghĩa. Khi qua đi một khúc đoạn ở cuộc đời hay nỗi niềm riêng, NTH vẫn ngạc nhiên là mình vẫn còn sống và câu hỏi duy nhất là làm sao để in ra, cũ và mới những gì đã ứa ra từ quá trình sống… chín này.
2.
MN: Cho đến nay tác giả Nguyễn Thị Hoàng đã cho ra đời bao nhiêu tiểu thuyết? kể cả tác phẩm đã hoặc chưa xuất bản. Chị quan niệm thế nào về một tiểu thuyết hay? Nó chỉ cần quyến rũ người đọc, hay nhất thiết phải chuyên chở một tư tưởng?
Cũng xin chị cho biết, những nguyên tắc cùng cảm nhận khác biệt nào đã có khi chị viết tiểu thuyết thay vì các thể loại khác, chẳng hạn như truyện ngắn, tùy bút, ký.
NTH: Chỉ mới cho đến hôm nay thôi, trên 30 cuốn đã xuất bản, khoảng 10 thì chưa (gồm những thể loại khác tiểu thuyết). Chỉ là những dấu chân đã qua, dù vẫn trên đường. Nhiều để làm gì, chỉ cần ba, vẫn chưa có mặt.
Thế nào là một tiểu thuyết hay thì có thể đáp gọn trong vài chữ, có thể thuyết trình trong một lần nói huyên thuyên, ở đây vẫn chỉ góp ý chìu theo câu hỏi:
Hiếm có một tiểu thuyết nào đáp ứng được mọi thể loại và đẳng cấp độc giả. Tính quyến rũ, nếu có, chỉ cho một phần nào trong tất cả độc giả. Yếu tố quyến rũ chỉ là một phần trong toàn thể những yếu tố khác quyết định giá trị tác phẩm; còn tùy cái gì làm nên sự quyến rũ.
Tiểu thuyết chuyên chở tư tưởng, chất liệu cần thiết để đắp xây hay phá hủy; nhưng tư tưởng lại không chuyên chở được tiểu thuyết - đương nhiên không thể là yếu tố chính để “làm hay” mà động lực tồn tại qua không gian và thời gian. Một cuốn sách hay do tư tưởng thì không là tiểu thuyết mà luận thuyết. Một tiểu thuyết hay hội tụ nhiều yếu tố, cách thế cảm nhận suy nghĩ trước tự thân và ngoại giới của tác giả, được thể hiện trình bày nó chân thực hồn nhiên như hít thở. Nên nếu phải hít thở theo nhịp điệu nào đó thì chỉ là bài tập thể thao không còn tự do sáng tạo. Nếu người viết có xúc động để sáng tạo thì người đọc mới xúc động được sáng tạo ấy.
Là một tác phẩm văn chương, nên văn chương vẫn là yếu tố tiên quyết. Ngôn ngữ âm điệu, cách sử dụng, như kiếm báu, dẫu rèn đúc hay lưu truyền thì hiệu lực không do chính nó mà từ kiếm khí, cách khác, là cung cách thể hiện một hiện thể.
Tiểu thuyết hay khi người đọc mỗi một và tất cả dẫu khác xa nhau, đều tìm thấy một phần mình muốn, thích, cần sống không có được trong đời sống. Qua tiểu thuyết, người đọc sống lấy mình bằng xúc động và đồng cảm với tác giả.
Sự quyến rũ, ở vật thể hay phi vật thể là hiệu quả của chất chứa và phóng tỏa một nội thể đã sống lấy tận cùng nó.
Về nguyên tắc và cảm nhận khi viết tiểu thuyết thì, một dàn dựng không công phu nhưng phức tạp uyển chuyển theo chủ ý hay chủ đích riêng, giữa các sự kiện nhân vật bối cảnh có thực cùng mức độ và khả năng (hoặc tài năng) phóng hóa nó để mỗi sinh vật thể được là như thế khi nó chưa là hoặc không bao giờ là như thế. Chỉ có xúc động của mỗi nhân vật mà tác giả hóa thân hay nhập vai tùy lúc là có thật. Riêng đối thoại và diễn tả về những trạng thái ấy thì hay hay dở tùy theo khả năng vận dụng tính đạo diễn của tác giả. Cách của NTH, chỉ khi cảm nhận được tận cùng (xúc động hay chấn động tận đáy thẳm linh hồn) đến rơi vỡ nước mắt (đôi khi nước mắt trên môi và nụ cười trong mắt) về một vẻ đẹp (không phải chỉ beauté esthétique1!), lòng đau hay niềm yêu thì khởi sinh sáng tạo như một ứa tràn hồn nhiên không ngăn cấm, không hạn chế.
Tiểu thuyết là thế giới tác giả sống lấy mình nơi mỗi một nhân vật, hoặc ít ra là sống với, một thể hiện hoàn toàn tự do về mọi nỗi niềm và cách thế, vô điều kiện, hoặc điều kiện duy nhất: mình có đáng là như thế hay không.
Truyện ngắn lại khác, cần súc tích, bao gồm, trọn vẹn và bắt buộc hạn chế, vì kiến trúc sự kiện lẫn nhân vật, vì ý tưởng xoay quanh một trục thèse2nào đó cho một lãnh vực của nhân sinh. Nó cần chuyên chở; nhắn gửi một thái độ, một quan niệm, tối thiểu là một ý kiến, xao xuyến nào đó của tác giả về một vấn đề hay một hiện tượng, một tình trạng.
Thời này, tự do được tuyên dương nên người ta cứ viết gì tùy thích, xong gọi là ngắn vì không dài, tùy bút vì không chủ đề, ký vì chỉ muốn nhận mà không phải tốn hao gì cả.
3.
MN: Hợp Lưu số này được hân hạnh giới thiệu một chương trích từ tiểu thuyết ‘‘Người Yêu Của Đấng Trời’’ chưa đăng báo cũng chưa xuất bản của chị, và theo ghi chú ở Lời Ngỏ thì chị đã khởi đầu cách đây 13 năm. Đây là một tác phẩm mà trong đó chị đã luận giải những tương quan giữa Tôn giáo, Con người và Tình yêu. MN đọc thấy hai đoạn như sau :
‘‘Tất cả đều in bóng lên nền xanh bát ngát của lòng trời, và những đôi mắt linh hồn mãi mãi tìm nhau, vẫn dồn trút niềm yêu và nỗi đau trong cái nhìn đáy thẳm tuyệt vời của im lặng và bóng tối.’’
…..
‘‘Khoác lên trái tim chưa yêu của Chúa một vầng hoa nguyệt quế nghìn thu. Và trái tim nào đã yêu đến tan nát cả chân như thể tánh mình, hãy lấy búa kim cương đóng lên một chiếc đinh vàng, để dưới bóng Chúa lung linh nến hồng thuở trước, trên tình yêu không bao giờ có thực của chúng ta, một giọt máu trường sinh nhỏ xuống.’’
Như thế, phải chăng có sự mâu thuẫn? : Linh hồn tình yêu tìm nhau trong đáy thẳm của im lặng và bóng tối, vậy là đã tin có tình yêu, rồi sau đó lại hoài nghi, hơn cả hoài nghi nữa, một xác tín, là nó không bao giờ có thực.
Theo chị Hoàng, Chúa chưa từng yêu? Vì sao lại phong quang cho ‘‘Trái tim chưa yêu’’ này bằng một vòng nguyệt quế ?
NTH: Nếu đọc hết toàn bộ gồm những chương khi chưa cắt xén trong sách lẫn những đoạn đã tháo gỡ bớt thì NYCĐT không luận giải gì, lại càng không có ý thiết lập tương quan giữa Tôn giáo, Con người và Tình yêu. Tình yêu nơi đây, dẫu thế nào, chỉ là ngọn lửa sưởi ấm soi sáng, phản chiếu tính cách của một siêu thể trên đường đi và đến. Cũng không luận giải một tôn giáo mà chỉ là cách thế nhìn ngắm, xao xuyến đối với một biểu tượng, một hiệu lực, của một kẻ (tác giả) không phải tín đồ Thiên chúa giáo, lại càng không đọc, hiểu gì về tôn giáo này. Còn Con Người thì không phải con người nói chung, mà Con Người viết hoa nào đó trên hành trình chuyển hóa và thắng vượt để trở thành.
Mâu thuẫn, nếu có thì từ phía nhìn khách quan. Thuần túy chủ quan của tác giả (chép lại cảm nhận mình hơn là luận giải một vấn đề), trên những dòng này của Lời Ngỏ, mỗi câu đều có định ý riêng. “Trên tình yêu không bao giờ có thật của chúng ta”, ý nghĩ của người viết khi nói với một con người. Có thể chỉ là với một cái bóng, nguồn cơn của đối thoại. Một ý niệm trừu tượng, một đối thể không có thật, tình yêu vì vậy cũng không bao giờ có thật trong trạng huống này. Nhưng nếu mà yêu, người viết hay nhân vật hay bất kỳ ai, nếu đã yêu đến mức tan nát cả chân như thể tánh mình thì xứng đáng với một khổ hình trừu tượng tuyệt vời: búa kim cương đóng đinh vàng (MN này, đinh vàng thì vô khối, nhưng biết tìm đâu ra búa kim cương?), chỉ là một giọt máu từ vết thương vĩnh cửu này sẽ nối truyền đời đời sự sống. Trong phạm vi lời này, chuyện này là như thế. Còn tình yêu có thật hay không bao giờ có thật, như một định lý phổ quát, thì là một chủ đề khác. (Khi nào HL hay diễn đàn nào cần, xin cứ gọi, sẽ thưa sau). Tất cả đều là trừu tượng, chỉ niềm đau không cùng tận là có thật. Niềm đau hơn cả sự chết. Sự chết chỉ là một hơi thở, niềm đau thì không cùng tận. Chẳng phải thế giới cũng đang đau không cùng tận bằng chính tay con người đóng gõ đó sao?
Chúa chưa từng yêu? Chúa, Jésus thật, đã từng yêu hay chưa làm sao một con người trong khoảng cách không gian thời gian và mọi điều kiện khác lại có thể biết được Chúa đã từng yêu chưa? Điều ấy ngoài Chúa ra không một ai được biết đúng, đôi khi kể cả trời.
Nhưng hai điều cần được nói ra: nhân vật (vì là trong tiểu thuyết) Chúa trong cảm niệm của người viết, giữ mình trọn vẹn thánh tính trên hành trình đi và đến, không tiếp nhận ở mình với mình, mình với người khác cái gọi là tình yêu hạ giới, dẫu đến như thế nào, dành mình cho tình- yêu- tuyệt- đối-không- cùng- tận đối với trần gian. Một vòng hoa nguyệt quế ( chiến thắng, thắng vươt) cho một thánh tính, vầng hương nơi một bông hoa, hay bông hoa cho một vầng hương, sao lại không?
4.
MN:Tin rằng Chúa chưa yêu, hay giả là Chúa có yêu nhưng đó là tình yêu biển trời bao la, tình yêu cho mọi nhân loài, và dựa theo cả cốt truyện, nếu bây giờ độc giả cho rằng tựa cuốn tiểu thuyết này nên là ‘‘Người Yêu Đấng Trời’’, như thế sẽ thích hợp hơn ‘‘Người Yêu Của Đấng Trời’’ thì tác giả Nguyễn Thị Hoàng nghĩ sao ?
NTH: Sách chưa được in lại phải giải thích một điều trong sách thì thật… chưa từng có. Đành vậy, biết sao hơn trong tình thế cũng chưa từng có này.
Theo lẽ, thì NYCĐT phải là nhân vật chính của câu chuyện. Nhưng theo bố cục tổng quát một dàn dựng gồm ba bộ: Ông Chúa, Ông Phật, Ông Người, thì vấn đề (hay tương quan giữa nhân vật và Đấng Trời) không phải ở chính mỗi bậc vị này mà nơi đáp số hay hiệu lực của họ đối với nhân loại. Trong NYCĐT giai đoạn trước có ba nhân vật Jésus, Maria, Madeleine, vai phụ hay doublure3 của J., Angel. Giai đoạn sau là Dominico, Thérèse. Ai làm nên và đem lại hiệu quả nơi trần thế đúng ý Trời thì đó là NYCĐT. (Xin hiểu Trời theo nghĩa là Đại Huyền Lực Vũ Trụ vận hành cuộc Tiến Hóa muôn loài).
Vậy nên, NYCĐT không phải Jésus. Thế thì ai?
5.
MN: ‘‘Không phải Chúa chịu khổ hình, như một biểu tượng cứu chuộc thương đau như cũ, vì con người không còn biết xúc động trước cái đẹp siêu linh hay những giá trị tinh thần tột đỉnh mà bằng một vóc dáng, một thể hiện mới, trên biểu tượng lẫn hành vi, đáp ứng được cơn đói khát đương thời mà con người đang gào la khắp cùng thế giới thì quả thật đó là Chúa trở lại, một Chúa mới của con người đương đại.’’
Đây là tư duy của Bà Nhất, người sơ trưởng trong tu viện, về sự trở lại của Chúa với con người mới. Con người đương đại khác với con người thời Chúa chịu khổ hình ra sao? Con người thời nay không còn những xúc động siêu linh mà chỉ muốn Chúa đáp ứng đòi hỏi của họ? Chị quan niệm như thế?
NTH: Chỉ khi xuyên suốt một tác phẩm (không cắt xén một phần, một chương hoặc dẫu một khúc đoạn nào) mới nắm bắt trọn vẹn được ý định tác giả. Lời của Bà Nhất chỉ là ý kiến dẫn khởi cho hàng loạt những biến chuyển về sau sẽ giải trình ý định ấy. Thời này, thời ấy khác nhau, nhưng con người thời nào cũng đều có xúc động và đức tin, phóng tỏa hay giới hạn tùy thuộc vấn đề và nhu cầu sống từ môi trường quanh đời. Con người đi dạo trong thiên nhiên phóng khoáng sẽ cảm ứng nhanh những quyền phép siêu linh, con người trong thang máy chỉ trông cậy vào cái nút bấm để xuống lên và đôi khi sống chết vì.
Vấn đề là thời này Ý Chúa có được thể hiện nối truyền đúng và do đó hiệu lực có còn trọn vẹn không. Đức tin và khát vọng về cái đẹp mãi mãi tồn lưu nơi con người, nhưng với những nhu cầu khẩn cấp và cay nghiệt hiện thời, con người mong muốn và đợi chờ cái hiệu quả tức thì và hiển nhiên như một công thức hay đáp số giải được mọi bài toán khó. Không phải là một Chúa mới hay Chúa trở lại mà một con người có vóc dáng và tính cách Chúa, nhận ra toàn bộ vấn đề xưa sau, xoay vần và phục sinh lại Ý Chúa.
6.
MN: Vẫn nói về ‘‘xúc động’’, trong chương cuối của tiểu thuyết, Chúa của tác giả Nguyễn Thị Hoàng đề cập và phân biệt tách bạch ‘‘Con người trên trái đất’’ và ‘‘Giống dân trên các hành tinh khác’’ của giải ngân hà. Chúa ở đây, còn cho rằng con người trái đất có thể thua các sắc dân ấy về trí tuệ và nhiều cơ năng khác nhưng hơn hẳn họ ở khả năng kỳ diệu là biết cảm xúc.
Dựa trên căn bản nào, khoa học, thần học hay cũng là do trí tuệ siêu phàm mà Chúa đưa ra luận thuyết ấy? Chúa nói ra những điều đó trên cương vị một con người trái đất hay Đấng Trời bao trùm cả vũ trụ?
NTH: Câu hỏi đã phân định rõ, Chúa của tác giả NTH. Vậy những lời nói ra của Chúa trong tiểu thuyết này không phải là của Chúa Thánh Kinh mà chỉ là những suy nghiệm của người viết. Nếu là nghiên cứu biên khảo thì lời Chúa biên khảo phải đúng là lời Chúa. Trong phạm vi tiểu thuyết, một sáng tạo, hoặc phóng tác, mô phỏng thì cũng như trang phục, vóc dáng, chuyển động, hành xử, lời lẽ một personnage4 có được phép là, của, do, từ, bởi chính người viết không? Dựa trên căn bản nào, khoa học, thần học, trí tuệ siêu phàm. Chủ từ chữ “ dựa” trong câu hỏi hẳn là người viết. NTH khởi viết, trước tiểu thuyết, bằng thơ (Tạp chí Bách Khoa 1960), và căn chất mãi mãi cũng chỉ là thơ, rất “dốt“ và sợ cái gì liên quan đến khoa học. Còn thần học thì lại càng thất thần… học. Về trí tuệ siêu phàm, tắt là siêu trí, hiểu biết vượt trên mức độ và giới hạn trí tuệ bình thường? Nếu chỉ là cách suy nghĩ của người viết thì không trên cương vị nào ngoại trừ một Cõi Không vô cùng tận. Nơi đó có Trời, Đại Huyền Lực vũ trụ.
Bằng cách nào mà như thế? Điều này thuộc về tác giả và không liên quan đến tác phẩm.
7.
MN:Trong Thánh Kinh, Marie-Madeleine trước là một gái làng chơi bị người ném đá. May có Chúa đi qua và nói với đám đông : Ai thấy mình không là kẻ có tội thì được tha hồ ném. Thế là mọi người bỏ đi. Đây là một câu chuyện hay và thuyết phục. Không thấy chị Hoàng đem vào tiểu thuyết?
NTH: Có nghe nói về “ Madeleine bị ném đá”. Vì không đọc thánh kinh (lại dốt!), nên không lấy chuyện này và có thể còn nhiều chuyện hay khác nữa đem vào tiểu thuyết. Điều chính yếu trong NYCĐT là tâm mạch mà không là sự kiện, đúng hơn là giả thuyết về tâm mạch. Mỗi tâm mạch lại phản chiếu tâm mạch khác trong tương quan, theo hướng đích của hành trình chuyển hóa.
8.
MN: MN xin có câu hỏi cuối về tác phẩm, có thể nói là một công trình này của chị. Trong lời ngỏ, chị viết: ‘‘Cái trống rỗng hao hụt hiện lên thay thế vị trí đường nét tuyệt vời của một tác phẩm thành hình.… Để được là tặng phẩm đầu tiên và cuối cùng cho một niềm yêu, cho một nỗi đau, một sự sống khởi đầu từ cái chết.’’
Đó là ý nghĩ trước ánh chớp loé, trước khi viết. Vậy khi tác phẩm đã thành hình, đã viết xong, chị cảm giác ra sao? Đã được hồi sinh? Và có được ở trong tay Chúa?
NTH: Công trình nào cũng đòi hỏi nỗ lực và thời gian thực hiện. Dẫu hiệu lực thế nào, tác phẩm này vì thế, không phải là một công trình, mà chỉ như một đoản khúc viết nhanh từ ánh chớp tâm linh. Chỉ khi nghe lắng được Mình, một Mình vắng lặng, riêng tư mà chan chứa, NTH mới viết, đúng hơn là chép ra những lắng nghe ấy. Nếu hiểu chết trong nghĩa lớn, thì mỗi đời trong Cõi Khổ này đã phải chết đi và sống lại biết bao lần, mỗi thể loại vì một nguyên nhân hay động lực khác nhau. Trận hồi sinh ở NTH không phải từ viết hoặc viết xong, mà từ bắt gặp nguồn cơn phát sinh xúc động sáng tạo (tạm gọi là như thế), đôi khi là thực thể, đôi khi trừu tượng, hoặc những phóng hóa trừu tượng đến chỉ là ảo giác phủ trùm long lanh trên thực thể vốn chẳng là gì. Đó là bi kịch lớn của một loài mãi hoài đơn độc, như sơn dương đầu ngàn uống bóng mình dưới suối trăng tan!
Trong tay Chúa ư? Không trong tay mà đối diện, với khoảng cách giữa mặt đất và vòm trời. Không trong tay Chúa. Không trong tay người. Không trong tay một ai, trừ một thứ hình như là Định Mệnh.
9.
MN: Xem như đã hỏi xong về tác phẩm, bây giờ MN xin được phép dấn sang chuyện đời thường. Bằng hữu trong nước hẳn luôn tới chơi với chị, riêng bạn bè từ nước ngoài về, MN biết nhiều người thích đến uống một ly rượu, trò chuyện với Nguyễn Thị Hoàng. MN vẫn còn nhớ vài buổi sáng Saigòn dìu dịu trong không khí những ngày cận Giáng Sinh, ngồi trước cốc cà-phê, thảnh thơi nghe chị nói về những hạt bụi lung linh trong nắng và trong cả con người. Rồi từ con người chung chung đó, chị nói đến con người riêng trong MN, qua cái nhìn của chị. Thú thật, ngoài những phân tích nhằm xem phản ứng người đối diện ra sao ấy của chị, thì cử chỉ, lời nói và cả nét mặt của một nhà văn đã làm cho MN, của một thời mới lớn mê mẩn với’‘Vòng Tay Học Trò’’, vừa bị lôi cuốn vừa ngỡ ngàng, trước một Nguyễn Thị Hoàng ngày nay toát ra một thứ gì tạm gọi là ma lực. Chị Hoàng có thể cho biết cái lực đó đến tự nhiên hay là do luyện tập mới có, được chăng?
NTH: MN đã “nhận ra” được NTH nhưng lại hiểu oan một tính cách (toát ra một thứ gì tạm gọi là ma lực). Tuy nhiên, không biết rõ chữ ma lực dùng trong ý tứ nào của MN. Thông thường thì Ma lực đối nghịch với Phật lực. Nhưng ma lực theo nghĩa một sức cuốn hút kỳ bí thì lại khác. Hoặc hiểu theo kiểu phù thủy yêu tinh thì tình thế trở nên rùng rợn hẳn. Nghĩa nào thì tùy theo ngắm nhìn và cảm nhận mỗi phía, NTH tự hiểu. Mình không nhìn thấy mình được để biết ra sao trong tương quan. Nhưng chỉ trong những tấm gương soi là một đối diện tương đương và tương thông, cái LÀ sâu thẳm và chân thật mới hiện ra hồn nhiên không… diễn xuất.
Cái được gọi là ma lực ấy, tự hiểu chỉ là chút hắt bóng lung linh từ ngọn lửa nén của nội thể âm u một con người tưởng là tung hoành mà kỳ thực đã trọn đời nín sống, nói cách khác, đã chưa và không bao giờ tìm thấy vóc dáng cuộc đời đúng như tính cách và tầm cỡ mình.
10.
MN: Để kết thúc, MN muốn biết, ‘‘Vòng Tay Học Trò’’ bây giờ là gì, với Ngưyễn Thị Hoàng?
Chị có thể kể lại cuốn tiểu thuyết này đã ra đời ra sao, do đâu, đã được đón nhận và chống đối thế nào trên các diễn đàn văn chương Saigòn thời đó?
MN nhớ, sau buổi ấy, khoảng năm 1970, bên Pháp ra cuốn phim ‘‘Mourir d’Aimer’’ (Chết vì Yêu) với Annie Girardot, cùng một đề tài: Một nữ giáo sư yêu cậu học trò trẻ tuổi và bị sự phản kháng mãnh liệt của bố mẹ cậu ta nên đi đến tự vận, cuốn phim rút từ một câu chuyện thật đã gây ra lắm xôn xao, báo động, trong các gia đình và học đường. Ở Việt Nam, có những phản ứng tương tự của phụ huynh học sinh hay không, với cuốn truyện của chị?
Tấm ảnh chị cho đăng trên Hợp Lưu số này có phải là hình cô giáo Hoàng thuở ấy?
NTH: Đành phải nhắc nhở vài hàng về sự tích VTHT ngày xưa. Chán chương trình, không khí ở Văn khoa, Luật, bỏ học, đi làm không lâu lại bỏ việc này (thư ký riêng của một tỉ phú) 1960, tìm việc khác 1961. Được bổ nhiệm về Nha-Trang dạy học, trường nơi đây từ chối; chuyển lên Đà-Lạt. Trường nữ dư giáo sư, trường nam thiếu nên xảy chuyện “hoa lạc giữa rừng gươm”, 1962. Năm sau bỏ Đà-Lạt. Mùa hè 1964, một xấp pelure5 ố vàng, một cây bút gì đó, viết một hơi một tháng, VTHT. Bách khoa in mấy kỳ, thiên hạ xôn xao. Nhưng sau đó chuyển cảnh qua chồng con, bản thảo VTHT xếp lại. Đến 66, một nhóm tìm kiếm VTHT, xuất bản. Tái bản 4 lần trong vòng mấy tháng. Sóng gió nổi lên từ mọi phía, vì những lý do và động lực khác nhau. 5 tờ báo, cùng nhất loạt lên tiếng phê phán, chỉ trích, tóm lại là chửi bới. Rất tiếc cuộc biển dâu cuốn trôi không còn một mảnh tài liệu nào, còn trí nhớ NTH thì chỉ gạn lọc lưu trữ những gì tốt đẹp. Hình như nhân danh hay đại diện phụ huynh học sinh, nhà trường gì đó có lên tiếng trong một bài báo. Không có những phản ứng trực tiếp tương tự như trong phim đối với cuốn truyện, còn gián tiếp thì không biết.
Khi viết, với không phải viết cái gì đã sống, mà trên khung cảnh, sự kiện, nhân vật của khoảnh khắc thoáng qua “trong vai” cô giáo ấy, tăng giảm biến đổi để đúng vóc dáng một câu chuyện. Đã không tính đến chuyện viết tiểu thuyết hay hình thành một tác phẩm với dụng ý, mục đích nào mà chỉ góp nhặt lại những mảnh vụn của một khúc đời đã vỡ.
Thế mà nó trở thành tác phẩm, tác giả với hàng loạt những hệ quả sinh khắc liên hồi từ ấy.
Được lồng bóng trong một giai đoạn thời sự bất an, những ngộ nhận phê phán không thuần túy qua lăng kính văn học nghệ thuật mà nhiều vấn đềngoài nó. Cái nhãn hiệu độc dược hiển nhiên dễ dán là vô luân lý đạo đức, hay một chữ gì đó tương đương hoặc nặng nề hơn.
Nhưng nó là như thế nào so với hàng loạt những tác phẩm đã dịch và in ra, những câu chuyện có thật trong đời thật. Trong VTHT hay bất cứ đâu, nếu cô giáo yêu một học trò ngoài lớp mình dạy bị kết án thì những mối tình hay hôn nhân giữa thầy giáo với học trò(chuyện thường thấy), lớp mình hay lớp khác trong trường, thì được phép, tại sao?
Nên hình như chủ đề chỉ là cái khiên, những mũi tên nhắm phần sau là một trường hợp, của một giai đoạn.
Nó là cái chìa khóa mở cửa vào một thế giới, nhưng hơn mười năm sau, cũng là thứ chìa khóa đóng kín thế giới ấy lại để có mặt bỗng nhiên vắng mặt.
Nó là cái khởi đầu muốn chấm dứt tất cả những gì trước và sau nó, nhưng thật phản tác dụng, nó lại là cái tín hiệu, là mối nối của những tương giao, hiệu ứng hai mặt của một tính cách định mệnh. Bởi, nó gián đoạn, chôn vùi gần kín thời gian một đời người hay một đời viết, nhưng bù đắp, cái gián đoạn chôn vùi này lại lắng đọng và tích lũy một tố chất cuồn cuộn khác trong hồn nhiên tự tính.
Trên tất cả, nó đem đến những kiếm tìm gặp gỡ và bù đắp cái không là gì cả mà là tất cả của hôm nay, như giọt lửa sau cùng dưới đám tro vùi, thắp lại được một phần còn mong manh mà kỳ thực là cái khởi đầu chờ mong của SỐNG và VIẾT.
Khoảng 71, 72 gì đó, Kiều Chinh và Đặng Trần Thức có tìm gặp NTH định làm phim VTHT. Về sau lại thôi, hình như vì sợ đọ sức với Mourir d’aimer của Pháp. Sau đó (sách hay phim) ai làm gì liên quan đến VTHT, NTH hoàn toàn không hay biết, cho đến nay. NTH vẫn vấp phải những thứ tương tự oan khiên như vậy. Sự thật, những thứ kia là thuần túy phim ảnh, tiểu thuyết, phía mình thì trích dẫn và phóng tác bằng chính những mảnh vỡ đời mình. Ví dụ, một thời gian sau cuốn Ngày Qua Bóng Tối, NTH xem Un Certain Sourire của F. Sagan. Những nhân vật trong NQBT của NTH lại giống như Luc (với Rossano Brazzi Ý), Bertrand, Dominique và Francoise, chỉ khác ở F.S thì phá phách, ở NTH thì rã rời (trong truyện này).
Tấm ảnh nào trên HL? Có người về khi đi mang theo mấy tấm hình NTH trong thời gian viết VTHT, sau khi ra khỏi vai trò cô giáo thoáng qua.Có phải trên trận biến hóa liên hồi của những vai trò và tính cách, con người (hoặc NTH) không thể khoác áo sai lúc và nhầm vai? Chỉ mỗi một điều ngàn muôn năm không thay đổi, cái là tự tính bất biến, hoặc “luyện tập” (không phải luyện tập để có ma lực!), để trở thành bất biến hoại, để có ai còn tìm kiếm kiếp nào sau, còn nhận ra và gặp lại.
NTH xin lỗi về những lời đáp lại không vừa ý những câu hỏi; trong phạm vi bài này và từ mọi phía thắc mắc chưa gặp được nhau. Bởi vì NTH đã không thu nhỏ hoặc phóng lớn mình theo thói thường của một phỏng vấn xưa kia. Chỉ vì những câu hỏi trên đã “chạm mối thương tâm”, nhức nhối mấy mươi năm trời nên đành phóng tỏa không đắn đo suy nghĩ gì hậu quả những lời mình. Cám ơn, MN và “ai đó” (biết có chữ nào qua giới hạn chữ nghĩa?) đã giúp người câm- câm thời khí, không phải bẩm sinh- bỗng được nói “sau ngần ấy năm trời”. Còn gì nữa không? Còn. Vẫn còn. Vẫn còn những gì không bao giờ có thể hết.
Mai Ninh chân thành cám ơn chị Nguyễn Thị Hoàng đã chấp nhận trả lời phỏng vấn này, với những “phóng toả không đắn đo” dù tác phẩm NYCDT chưa được in ra (điều chưa từng có, như lời tác giả); nhất là chị đã cho phép MN được ‘‘chạm đến mối thương tâm’’ không những của một nhà văn mà của một con người, trong nghĩa tròn vẹn nhất.
Caen – Saigòn
(Mùa xuân, 2003)
No comments:
Post a Comment