Ba ngày đêm trên biển:
Chuyến đi định mệnh ấy là chuyến đi kéo dài ba ngày và ba đêm,
tính từ chiều đêm khởi hành cho đến lúc bão biển nổi dậy đánh đắm tàu và mọi người
may mắn được cứu vớt lên trên một giàn khoan dầu giữa biển khơi. Đêm trên giàn khoan ấy là đêm thứ tư. Ngày hôm sau, mọi người được chuyển đến một hòn
đảo dành cho người di tản, có thể chứa đến hơn chục ngàn người. Ra đi với tâm thế của một người đang ở tận cùng
của niềm tuyệt vọng, một người chẳng có gì để mất nữa, nên tôi thấy lòng mình thật
thản nhiên trước mọi hiểm nguy rập rình, kể cả lúc tàu gặp bão và sắp chìm. Suốt cả cuộc hành trình, lòng tôi phẳng lặng
như mặt biển những lúc trời quang, gió lặng, và có cảm giác như tôi đang đi trên
một chuyến viễn du nào đó.
Chỉ có khoảng thời gian chật chội, tù túng đến ngạt thở dưới
khoang tàu là kinh nghiệm duy nhất làm tôi cảm thấy kinh khủng. Vì lý do đó, ngay khi tàu thoát ra được hải
phận quốc tế và mọi người được phép lên phía trên mạn tàu vào sáng hôm sau, tôi
quyết định không bao giờ còn trở xuống đó nữa.
Tôi chọn để ngồi tại một góc bên ngoài cabin của tàu, kể từ lúc đó cho đến
hết chuyến đi. Vị trí ngồi lộ thiên đó
tuy được sống thoải mái với trời cao, biển rộng, nhưng vô cùng nguy hiểm, vì dù
thức hay ngủ, một tay phải luôn quàng qua thanh cột của cabin, để giữ cho mình
khỏi phải rơi tuột xuống biển sâu. Và tôi
đã ngồi như thế ở vị trí đó, phơi mình cho nắng gió và mưa bão, suốt ba ngày và
ba đêm. Không có gì để ăn. Cũng chẳng có gì để uống. Một mình và chỉ một mình thôi. Chung quanh không có ai. Chỉ có trời và biển.
Chưa bao giờ tôi có dịp để sống với biển một cách gần gũi, gắn
bó và trọn vẹn đến thế. Ba ngày đêm trên
biển là ba ngày đêm tôi sống và thì thầm cùng biển từng phút, từng giây, kể cả
trong những giấc ngủ chập chờn. Ba ngày đêm
tôi chỉ ngủ từng cơn thật ngắn, mỗi cơn kéo dài khoảng vài phút thôi, vì nếu ngủ
quên, lỡ buông tay thì sẽ rơi vào lòng biển lạnh. Ngày trên biển, với nắng và gió, với những đường
chân trời xa tăm tắp, tưởng như chẳng thể nào đi tới được, lần đầu tiên, tôi cảm
nhận được sự bát ngát và bao la của đất trời, của cuộc sống. Tôi cũng cảm nhận được trong không khí biển cả
mà mình đang hít thở có một hương vị gì đó rất lạ, lạ lắm mà từ trước đến nay,
mình chưa bao giờ có dịp được hít thở. Hương
vị đó gợi lên cảm giác tự do - thứ cảm giác mênh mông, không có giới hạn.
Triết lý Phạm Công Thiện:
Chuyến đi định mệnh bất ngờ đã giúp tôi khép lại đoạn đời làm
thầy đúng lúc, và đồng thời mở ra một bước ngoặt mới trong cuộc đời của tôi. Nói như thế không có nghĩa là tôi đã kỳ vọng
rằng nó sẽ ngay lập tức giúp tôi có được một cuộc sống mà mình hằng mong muốn. Không!
Tôi không ảo tưởng như thế. Dẫu
khi ấy, tôi là người sống lãng mạn, nhiều mộng mơ và phi hiện thực, nhưng tôi ý
thức rất rõ rằng đó là một chuyến đi muộn màng.
Cánh cửa đón nhận người di tản đã khép lại vào tháng ba năm ấy, mà thời điểm
tôi ra đi là vào tháng mười, tức là muộn đến nửa năm trời.
Ra đi muộn màng như thế, tôi hiểu là tôi chỉ đang bò trườn từ
một bế tắc này sang một bế tắc khác, có thể là không kém phần nghiệt ngã. Nhưng tôi đã chấp nhận nó một cách rất mặc
nhiên. Nghiền ngẫm thật nhiều triết lý sống
của triết gia Phạm Công Thiện vào những ngày sống tuyệt vọng, tôi đã học thuộc
nhuần nhuyễn từ ông một điều rất đỗi quí giá này: Khi bạn
thấy mình đang ở trong một bế tắc nào đó, hãy cứ sống cùng nó, "bơi lội"
trong nó, và "làm tình" với nó. Tôi đã tập làm quen và sống cùng với nỗi bế tắc
tuyệt vọng của mình. Và do đó, thật lòng
mà nói, tôi chẳng mong đợi gì nhiều ở chuyến đi vượt thoát này.
Tôi chỉ xem chuyến đi này của mình như một hình thức "bơi
lội" trong sự bế tắc và niềm tuyệt vọng.
Điều tôi mong mỏi duy nhất từ nó chỉ là một sự thay đổi. Vâng!
Chỉ là một sự thay đổi mà thôi.
Tốt hơn hay xấu hơn đều được cả.
Miễn là thay đổi. Thậm chí, cho dẫu
nó có dẫn dắt tôi đến việc đưa mình vào trong một trạm giam nội địa nào đó, cũng
được. Tôi sẵn sàng chấp nhận điều đó mà
không hề hối tiếc. Ít nhất trong trường
hợp ấy, tôi cũng thỏa nguyện được một điều rất đỗi ý nghĩa: Đặt xong một dấu chấm hết thật tròn cho đoạn
đời làm thầy giáo của mình.
"Thái độ thiền quán":
Lúc Sisyphe quay trở lại xuống núi để bắt đầu lăn một tảng đá
khác lên trên đỉnh, ý thức được những gì mình vừa hoàn thành, ý thức được tính
phi lý trong đời sống của mình; chàng đã cho thấy mình lớn lao hơn định mệnh và
cứng rắn hơn cả hòn đá tảng mà mình đang lăn.
Sự vượt qua định mệnh đó là hạnh phúc, và cũng chính là giá trị đích thực
của con người. Bằng cách dấn thân vào
chuyến đi vượt thoát này, ý thức được tất cả những phiêu lưu, rủi ro và bế tắc đang
chực chờ mình ở phía trước, tôi cho rằng mình, cũng như Sisyphe, đã vượt qua được
định phận để cố tìm thấy hạnh phúc trong cái vô nghĩa và phi lý của đời sống.
Thái độ an nhiên, tự tại khác thường trong chuyến hành trình
vượt biển của mình, trong khi ai ai cũng lo âu và sợ hãi, đã làm cho chính bản
thân tôi, khi nhớ lại cũng lấy làm ngạc nhiên lắm. Còn nhớ ở ngày thứ ba, khi cơn bão kéo đến làm
con tàu rạn nứt và nước ngập đầy, trong khi mọi người la hét hoảng sợ, cố hết sức
để tát nước ra ngoài, thì tôi vẫn ngồi im bất động, an nhiên như thể chẳng có điều
gì xảy ra. Rồi khi con tàu tan nát được
kéo đến giàn khoan gần đấy, mọi người lại một lần nữa chen chúc cố để thoát ra
sớm nhất, thì tôi lại thủng thỉnh chờ đợi để làm người cuối cùng. Khi tôi vừa bước ra khỏi con tàu để lên giàn
khoan, cũng là lúc nó chìm đắm hoàn toàn vào lòng biển.
Tôi đặt tên cho thái độ ứng xử trong suốt cuộc hành trình định
mệnh ấy của mình là "thái độ thiền quán" - một thái độ ứng xử mang màu
sắc của thiền. Bản chất sâu xa của thiền
là "buông": buông tất cả, chỉ
còn lại hư không, chỉ còn lại hơi thở, và tập trung vào hơi thở ấy. Cái tâm thế thiền ấy, xét ra, giống lắm với tâm
thế của một người tuyệt vọng cực cùng (một cách tỉnh thức): tâm chấp nhận, không vọng động, không mong cầu,
không tin vào gì cả, chỉ còn tin vào một điều thôi, đó là niềm tuyệt vọng. Tôi tự hỏi có phải chăng chính cái tâm thế
thiền ấy là những bông hoa đẹp đẽ mà nhạc sĩ họ Trịnh đã tìm thấy ở tận cùng của
nỗi tuyệt vọng. Và tôi cũng tự hỏi có phải
chăng cái tâm thế thiền ấy chính là cái tâm thế của triết gia họ Phạm khi ông "bơi
lội" và "làm tình" cùng bế tắc.
Trong suốt cuộc hành trình vượt biển, vì nhiều lý do, tôi chẳng
có lần nào nghĩ về bục giảng, hay về cái quê hương mà mình vừa bỏ lại ở phía đàng
sau. Chỉ khi đến nơi an toàn và khoảng cách
giữa đôi bên đã là một đại dương mênh mông, nỗi nhớ mới chực ùa về và òa vỡ. Ngày ấy, tôi nhớ có đọc được câu nói của một
danh nhân nào đó: "Sự thay đổi nào
cũng buồn, cho dù là sự thay đổi mà mình mong muốn nhất." Giờ thì tôi đã đạt được sự thay đổi mà mình hằng
mong muốn, thế mà dư âm ngày cũ vẫn vọng về như xát muối lên trên những lát cắt
ở trong hồn.
Việc thư từ qua lại ngày ấy không dễ dàng gì, chi phí gửi mỗi
lá thư khá nặng cho người gửi ở VN và thư đi khá chậm, khoảng vài tuần mới đến
nơi. Qua một vài lá thư mà tôi nhận được
từ các em học sinh ở lớp chủ nhiệm mới, tôi biết được rằng việc ra đi của tôi đã
làm cả lớp bàng hoàng vì bất ngờ, và phải tốn một khoảng thời gian khá lâu các
em mới thích ứng được. Nhớ lại nỗi vui mừng
của các em khi được xếp vào lớp tôi chủ nhiệm mà tôi cảm thấy mình như có lỗi. Dẫu có cố ý hay không thì tôi cũng đã phụ rẫy
lòng kỳ vọng ở các em rồi. Cảm giác ấy đã
làm tôi day dứt khá nhiều vào những ngày đầu tiên bắt đầu một cuộc sống mới nơi
hòn đảo hoang giữa lòng biển cả, cách thủ đô của Malaysia
một khoảng cách không quá xa.
Sau khi tôi ra đi, vì không giữ liên lạc với bất cứ đồng
nghiệp nào, nên tôi không biết được Ban Giám Hiệu, cũng như các giáo viên khác,
đã phản ứng ra sao trước việc ra đi của mình.
Trong lòng tôi, tôi vẫn cứ đinh ninh rằng, mọi người, nhất là thầy hiệu
trưởng, chắc hẳn sẽ cảm thấy nhẹ nhàng và
thoải mái hơn, vì không còn "cái gai" trước mắt mình nữa. Tôi đinh ninh như thế là vì việc giảng dạy
nghiêm túc và được lòng học sinh của tôi, đã gián tiếp làm cho hình ảnh của một
số giáo viên khác trở nên xấu đi, những lời nói thẳng và thật của tôi cũng thường
xuyên làm cho thầy hiệu trưởng khó xử. Mãi
cho đến sau này, tôi mới biết rằng mình đã lầm.
Trong một dịp trở về phố biển nhiều năm sau đó, gặp và nói chuyện với một
đồng nghiệp cũ, tôi mới bồi hồi mà nhận ra rằng việc ra đi của mình cũng đã để
lại một nỗi hụt hẫng nhất định nào đó trong lòng mỗi người.
Những điều chưa nói:
Những phần hồi ức này về khoảng đời đi dạy ngắn ngủi của tôi
được viết trong vùng ký ức có phần nào mù mờ của một đoạn đời đã xa, nên những
gì được ghi lại là những gì vô tình còn hiện rõ sau lớp bụi phủ dày của thời
gian. Có nhiều điều đã bị vô tình lãng
quên. Cũng có những điều không còn nhớ rõ. Tuy nhiên, có hai nhân vật trong đoạn đời đó
mà tôi không thể nào quên, và sẽ là thiếu sót, sẽ là một sự vong ơn, nếu tôi
không đề cập đến họ. Do đó, tôi xin được
dành phần "Những điều chưa nói" này để nói về hai người mà tôi đã chẳng
bao giờ còn có dịp gặp lại hay liên lạc, kể từ ngày ra đi ấy.
Người đầu tiên là em - một người con gái. Em vốn chẳng phải là học sinh của tôi. Ngày tôi ra trường và đi dạy, em đã học xong
lớp 12. Em gái của em mới là học sinh của
tôi. Ở phố biển ấy, làm thầy của một đứa
học sinh, cũng có nghĩa là làm thầy của cả một gia đình. Tuy không dạy em nhưng em đã đối xử với tôi với
cung cách của một đứa học sinh luôn ngoan ngoãn và tận tụy. Tôi không bao giờ quên được những gì mà em đã
làm cho tôi. Mà có lẽ em cũng không biết
là chúng có ý nghĩa lớn lao với tôi như thế nào. Cũng
như tôi, em vốn mê đọc sách, và với số tiền mình kiếm được, em hầu như tiêu tốn
hết vào việc mua sách. Mỗi lần mua xong
một quyển sách mới nào đó là ngay sau khi đọc xong, em lại hí hửng mang đến cho
tôi đọc và muốn tôi giữ hộ giùm em. Tôi
không tài nào nhớ nổi hết lượng sách mà em đã mang đến cho tôi đọc trong những
tháng ngày đi dạy buồn bã ấy. Mỗi lần gặp
gỡ giữa em và tôi cũng đồng nghĩa với một quyển sách mới.
Những lần đi gác và chấm thi xa, cũng chính em là người đã đến
nơi để lo chỗ ở riêng biệt cho tôi, vì em biết là tôi không thích ở chung tập
thể với người khác, nhằm tránh mọi liên quan phiền toái. Tôi vẫn còn nhớ căn phòng yên tĩnh ở trong một
Ban Văn Hóa mà có lần em đã liên hệ được cho tôi. Tôi thậm chí còn nhớ trên chiếc bàn kê cạnh đầu
giường, em còn chu đáo để đó cho tôi năm quyển sách thật hay, lượng sách đủ để
tôi đọc trong suốt những ngày chấm và gác thi đó. Đến bây giờ mà tôi vẫn còn nhớ được tựa đề của
hai trong năm quyển sách ấy. Chúng là
quyển Ngàn Cánh Hạc của Nhật Bản và một
quyển tiểu thuyết dịch khác có tựa đề Người
Đàn Bà Mà Tôi Ruồng Bỏ. Có lẽ em là người duy nhất trong cuộc đời này
cho tôi niềm tin rằng con người có thể đối đãi với nhau với tất cả sự trân trọng
và thương yêu mà không ẩn chứa bất kỳ một mục đích gì cả. Ngày ra đi, tôi đã chẳng có dịp để từ giã em,
cũng chẳng có dịp để trao trả lại em toàn bộ số sách của em mà tôi đã giữ.
Người thứ hai là anh - một đồng nghiệp dạy Văn lớn hơn tôi
khoảng chừng dăm bảy tuổi. Anh vốn là người
miền Bắc, đồng thời là một bộ đội phục viên, mới về trường dạy sau này. Anh và tôi không hẳn là thân thiết với nhau lắm
và dĩ nhiên là khác biệt nhau rất nhiều.
Tuy vậy, tôi cảm nhận được là qua những lần giao tiếp không thường xuyên,
anh dành cho tôi một sự quí mến nhất định nào đó. Ngày ấy, bằng tốt nghiệp đại học chỉ được phát
ra cho sinh viên sau khi sinh viên đã hoàn thành công tác được vài năm. Hè năm ấy, tôi đã nộp xong đơn xin rút bằng,
nhưng phải đợi đến vài tháng sau thì mới có thể lãnh được. Điều bất ngờ là tôi lại ra đi trước lúc bằng được
phát. Những tưởng là tôi sẽ chẳng bao giờ
còn có dịp thấy được nó. Thế mà, không
hiểu bằng cách nào anh lại rút được nó và sau đó, tìm cách gửi qua cho tôi. Việc làm của anh tuy không có gì là lớn lao,
nhưng hàm chứa cả một ý tình của người ở lại đối với người ra đi, và khiến tôi
thật lòng muốn được gửi đến anh một lời cảm ơn chân thành. Ước muốn đơn giản thế thôi nhưng có lẽ chẳng
bao giờ thực hiện được vì anh rời trường xưa đã từ lâu và tất cả những gì mà tôi
còn nhớ về anh chỉ còn duy nhất là một cái tên (không nhớ họ) không hơn, không
kém.
Một thời để nhớ:
Thế là qua năm phần hồi ức, tôi vừa sống lại một lần nữa đoạn
đời làm thầy đáng nhớ của mình. Trong những
năm tháng phiêu bạt bôn ba, cũng như trong những năm tháng quay cuồng với nhịp
sống hối hả nơi đất Mỹ, tôi cứ tưởng là những ký ức ấy đã ngủ vùi, chẳng bao giờ
còn sống dậy nữa. Sống lại với chúng vừa
là một hạnh phúc, vừa nghĩa là phải nói lời chia xa lần nữa, lần chia biệt nào
cũng buồn.
Đoạn đời tôi làm thầy giáo ấy tuy ngắn ngủi, nhưng dư âm của
nó lại kéo dài thật dài và thật lâu. Nói
chung, tôi cho là mình đã nhận được quá nhiều so với độ dài thời gian mà mình đứng
trên bục giảng. Có lẽ hiếm có ai làm thầy
mà lại may mắn như thế. Trong quá trình đi
dạy của mình, tôi chưa hề gặp khó khăn hay phiền toái với bất kỳ học sinh nào. Tất cả những gì tôi nhận được là một lòng thương
yêu vô lượng.
Thậm chí, có những học sinh mà tôi chỉ có dịp đứng dạy trong
một khoảng thời gian ngắn thì các em đã ra đi, thế mà, dù ở nơi nào trên thế giới,
các em đã luôn dõi theo tôi, với một sự quan tâm miệt mài, từ những ngày tôi còn
ở lại cho đến tận những ngày tôi đã sang đất Mỹ và có được một cuộc sống mới. Ân tình ấy tôi không thể diễn tả bằng lời, cũng
chẳng thể dùng hai từ cảm ơn khách sáo.
Còn nhiều lắm những ân tình khác khi tôi gặp lại các em trên bước đường
di tản của mình nơi đất người xứ lạ. Không
có chúng, không biết chắc là tôi có vượt qua khỏi những năm tháng thử thách khắc
nghiệt và tàn bạo, dài đăng đẳng của định phận, trong hoàn cảnh cô thế, chẳng có
lấy đến một người thân.
Với độ tuổi còn quá trẻ, còn ít nhiều bồng bột và nông nổi,
không hẳn là tôi đã không hề làm bất kỳ điều gì làm mình không khỏi hối tiếc. Điều đó là không tránh khỏi. Cũng như không thể không có những điều mà tôi
ước gì mình đã làm chúng với một cách thức khác hay hơn, tinh tế hơn. Tuy vậy, bất chấp tất cả, tôi biết chắc rằng tôi
đã sống đoạn đời vàng son ấy của mình với tất cả tâm hồn và trái tim, theo một
cách thức, mà tôi đã từng nói ở phần hồi ức đầu tiên: Mỗi một con người chỉ có thể sống như thế một
lần thôi trong cuộc hành trình dài trăm năm đi qua kiếp phận con người.
Cũng có những bí ẩn mà một người thầy trẻ muốn mãi mãi vùi lấp
vào trong những góc khuất của tâm hồn mình.
Như cái bí ẩn mà anh ta chưa một lần thố lộ cùng ai trong bất kỳ hoàn cảnh
nào: Ở những tháng ngày đầu tiên làm thầy
giáo đó, có một nhân ảnh mà anh ta đã mang theo vào trong hành trang đời sống của
mình suốt cả cuộc đời. Chưa có ai mà anh
ta thương yêu đến thế. Chưa có ai mà anh
ta nhớ nhung đến thế. Chưa có ai mà anh
ta vẫn mải miết thầm thì, qua bao năm tháng, với chính mình rằng: Nếu biết
được rằng em đang làm gì và ở nơi đâu, tôi sẵn sàng làm bất kỳ điều gì cho em để
chỉ được nhìn thấy em hạnh phúc.
Jeffrey Thai
ReplyDeleteHạnh phúc là một chiếc lá
Âm thầm nảy lộc đêm đông
Buồn đau là một chiếc lá
Rụng trong nhựa ứa mai hồng
Nhớ mong là một chiếc lá
Run vô cớ giữa lặng không
Hờn ghen là một chiếc lá
Vờ đã tắt gió trong lòng
Cô đơn là một chiếc lá
Lay lắt mãi giữa cành đông
Tình yêu chỉ năm chiếc lá
Mà làm thành một cơn giông.
Có phải vậy không tác giả...?Tình cảm mãi là những điều bí ẩn mà không ai có thể giải thích một cách trọn vẹn...người ta chỉ nên cảm nhận và...chấp nhận.Tôi tin những gì bạn viết '' sẳn sàng làm bất cứ điều gì cho em để chỉ được nhìn thấy em hạnh phúc.'' một ngày nào đó sẻ thành hiện thực...Miễn là bạn còn giữ nó đến lúc đó.