Sunday, October 7, 2012

Tôi Làm Thầy Giáo - Hồi Ức (Phần II)




Ngôi trường rất trẻ:

Rời khoảng thời gian thực tập, nửa năm sau, tôi được phân công về giảng dạy ở một ngôi trường cấp ba rất trẻ, có một đội ngũ giáo viên cũng còn rất trẻ.  Nói ngôi trường trẻ vì nó vừa được thành lập cách đấy không lâu:  Số lớp học có thể đếm được trên đầu ngón tay, còn số giáo viên cũng chỉ nhỉnh hơn một chút và hầu như chỉ toàn là giáo viên nam.  Ngoài thầy hiệu trưởng và một vài giáo viên dạy môn Văn đến từ miền Bắc, còn lại đều là người miền Nam.  Ngày về trường, cho đến khi rời xa vài năm sau đó, tôi vẫn là một trong vài giáo viên trẻ nhất trường.  Các giáo viên còn lại cũng không lớn tuổi hơn nhiều lắm.  Người lớn nhất có lẽ là thầy hiệu trưởng với lứa tuổi xấp xỉ bốn mươi.  Đó là một người đàn ông hiền lành, ăn nói nhỏ nhẹ, phải sống xa gia đình nên có vẻ rất cô đơn.

Nhớ lại cái tập thể nhỏ bé chỉ khoảng hơn chục con người ấy, tôi cũng thấy có chút bồi hồi.  Dẫu không quá thân thiết, nhưng chúng tôi đã chia sẻ cùng nhau những kỷ niệm dấu yêu ở buổi đầu còn sơ khai của ngôi trường ấy.  Có trải qua những phũ phàng và nhẫn tâm của nhân thế ở những đoạn đời về sau, khi nhìn lại, tôi mới nhận ra một điều là:  Chúng tôi chưa bao giờ đối xử với nhau quá tệ, ngay cả trong lúc có những đối kháng nảy sinh, tưởng chừng như rất dữ dội.  Ngoài mặt, đôi khi làm ra vẻ lạnh lùng, hờ hững với nhau thế thôi, chứ thực ra trong lòng, chẳng ai ghét bỏ gì nhau. 

Đa số các thầy giáo đều hiền.  Vả lại, còn trẻ mà, tuổi tác lại không cách biệt nhau lắm, nên sự cảm thông cứ đến rất đỗi tự nhiên.  Đôi lúc không thân nhau chỉ vì khác biệt nhau về cách sống và về suy nghĩ, thế thôi.  Những lúc có gì mâu thuẫn với nhau, thì chỉ một vài lời nói không hay ở phía sau lưng đã là quá lắm, chẳng ai đi xa hơn giới hạn đó.  Có thêm một lý do này nữa cho sự cảm thông:  Trong mười mấy số phận con người cùng làm cái nghề giáo ấy, nhìn kỹ lại, ai cũng nhận ra ẩn khuất sâu kín trong lòng mỗi người là một nỗi buồn tái tê hay một nỗi lo đau đáu nào đó.  Người quê tận miền Bắc phải sống cảnh tha phương, mỗi năm chỉ về quê được một bận.  Người có gia đình, nhọc nhằn lo nỗi lo cơm áo.  Còn các thầy giáo trẻ mới ra trường như tôi, lòng cưu mang những nỗi buồn vời vợi, có tên và không tên, của tuổi trẻ vốn lãng mạn và nhiều suy tư.   



Thầy hiệu trưởng cô đơn:

Nhớ về các đồng nghiệp cũ, người mà tôi nghĩ đến nhiều nhất là thầy hiệu trưởng.  Giữa thầy và tôi chưa bao giờ gắn bó hay thân thiện với nhau.  Có nhiều lý do cho điều đó.  Một trong những lý do đó có lẽ là vì chúng tôi khác biệt nhau quá:  Trong khi tôi kiêu hãnh và mạnh mẽ, thì thầy lại phần nào quá hiền lành và nhu nhược.  Dẫu không hẳn là yêu nghề giáo, nhưng tôi thực sự quan tâm đến học sinh cũng như chất lượng học tập của chúng. Trong khi đó, với thầy, chỉ cần quan hệ gần gũi và thân cận với thầy thì muốn dạy dỗ ra sao cũng được.  Điều đó đã đưa đến việc có giáo viên chỉ đi dạy cho có mà thôi, và có lớp học bị bỏ bê đến nỗi nhìn đám học sinh bơ vơ mà thấy tội nghiệp.  Có lẽ thái độ quan tâm không đúng mức đối với tình hình giảng dạy cũng như học tập trong nhà trường của thầy là ngăn cách lớn nhất giữa thầy và tôi:  Nó khiến tôi cảm thấy bất mãn thầy.  Tuy vậy, khi nghĩ lại, tôi vẫn thấy có chút áy náy là:  Dẫu có như thế nào, tôi cũng nên thông cảm với thầy hơn và hiểu rằng thầy rất cô đơn.
 
Có sự việc này xảy ra, có liên quan trực tiếp đến thầy và tôi.  Đúng hơn, phải gọi sự việc đó là một biến cố, mà câu chuyện về nó sẽ được tôi đề cập đến rõ hơn ở những phần sau.  Sau biến cố ấy, tôi nhận được tờ giấy đình chỉ việc giảng dạy của tôi từ phía nhà trường, tức là từ phía thầy. Theo lẽ thường, giáo viên bị đình chỉ sẽ hoặc thỏa hiệp với ban giám hiệu, hoặc phản kháng với quyết định ấy.  Riêng tôi, tôi chẳng làm gì, cũng chẳng nói gì cả.  Tôi kiêu hãnh từ chối luôn cả việc nói chuyện, khi ban giám hiệu tìm đến.  Cái kết cục cho sự việc ấy đã làm tôi, khi nghĩ lại, cảm thấy khá buồn cười:  Thật "ngộ nghĩnh" làm sao khi người bị đình chỉ chẳng lo lắng gì, mà người lo lắng lại chính là người ra quyết định đó, tức là thầy. Sau một tuần lễ, không thấy tôi nói gì hết, có lẽ thầy sợ rằng tôi bỏ dạy luôn, nên đã tìm cách triệu tập tôi trở lại giảng dạy tiếp.  Dẫu rằng, tôi đã quay lại để giảng dạy tiếp lần đó, nhưng đúng như thầy dự cảm, chỉ một thời gian sau, tôi đã chẳng bao giờ còn quay trở lại nữa.  

Trong mối quan hệ với thầy ngày ấy, tôi cứ luôn nghĩ rằng thầy không thích tôi, nhưng có lẽ thực tế không hẳn là như vậy.  Tôi đã nghĩ vậy là vì tôi chưa bao giờ tỏ ra quan tâm đến thầy.  Hơn nữa, với bản tính bất cần và khí khái của tuổi trẻ, tôi còn nhiều phen làm thầy phải nhức đầu lắm.  Lúc ấy tôi còn quá trẻ để hiểu được thầy, nên có lẽ thầy đã hiểu tôi nhiều hơn.  Nhớ có lần trong một bữa tiệc rượu thân mật chỉ gồm các thành viên của nhà trường, thầy đã nhìn vào tôi rồi nói với chung quanh, với một giọng vừa trìu mến, vừa ngậm ngùi rằng:  "Tội nghiệp thằng N.!  Người như nó mà phải chôn chân ở cái xứ này."  Tôi không còn nhớ rõ mình phản ứng ra sao khi nghe thầy nói thế, nhưng giờ nghĩ lại thấy thương thầy quá.  Thầy đã hiểu tôi lắm.  Thầy đã nhìn thấy được trong những tháng ngày ấy, tôi sống như một người hấp hối, lạc lõng và cô đơn giữa một thế giới không phải thuộc về mình.  



Phố biển điu hiu: 

Gọi phố thị nơi có ngôi trường tôi đi dạy tọa lạc là phố biển vì nó cách biển không xa lắm, chỉ vài cây số lẻ.  Và vì gần như thế nên gió biển cứ như luồn lách vào từng khe ngõ của vùng phố thị nhỏ, quanh năm im lìm với một nhịp sống chậm rãi và buồn tẻ.  Chỉ những ai đã từng gắn bó thật thiết tha với biển, đã từng uống những ngụm nước mặn đắng của biển, đã từng nghe được tiếng gió biển thổi vi vút tận trong sâu thẳm tâm hồn mình, mới có thể cảm nhận được rằng:  Gió biển kỳ lạ và huyền nhiệm quá!  Gió đong đầy một thứ hương vị tươi mát làm hồi sinh lòng người, làm con người chợt nghĩ về một bầu trời cao rộng với những cánh diều bay nhởn nhơ giữa những chiều trời lộng gió. 

Thế nhưng, tiếng gió thổi mới hiu hắt làm sao.  Nó lượn lờ, vi vút ở giữa một khoảng không gian cao rộng với những giai điệu u trầm, tưởng như xa thẳm, nhưng lại cứ xoáy mạnh vào hồn.  Nó ru buồn cả một vùng phố thị đìu hiu, lặng lẽ, vốn là nơi sống của những người dân mộc mạc và giản đơn, suốt tháng quanh năm chỉ quẩn quanh chuyện "cơm, áo, gạo, tiền".  Tuy vậy, khi mùa đã sang, gió chướng đã về, gió bỗng giật từng cơn liên hồi.  Đi kèm với những cơn co giật của gió là những thanh âm gào rú rất lạ và cái tiết trời lành lạnh, không lạnh đến nỗi làm buốt giá, mà chỉ đủ lạnh để gợi khơi những thèm khát ấm nồng thật da diết, nơi những con người còn cô lẻ.  Người vui khi nghe gió co giật, gào rú như thế, thì bảo rằng gió đang cười ngả ngớn với nhân gian, khi một năm mới nữa lại sắp bắt đầu.  Người buồn cảm thấy như gió đang nói hộ lòng mình về những u hoài bão loạn, đã chất chứa từ lâu, tận trong sâu thẳm tâm hồn.

Tôi đã sống giữa phố biển đìu hiu với thứ tâm tư u hoài bão loạn đó.  Sống như một người khách lạ:  Mọi người chỉ nhìn thấy thôi, chẳng quen biết bao giờ.  Tôi chỉ giao tiếp và đi cùng với học sinh, hay thảng hoặc hơn là với các đồng nghiệp.  Tôi hiếm khi tiếp xúc với ai ngoài xã hội.  Không hẳn là vì không muốn, mà chỉ là vì tôi cảm thấy mình không nói cùng một thứ ngôn ngữ với họ, và nếu phải nói, tôi e rằng mình chẳng biết nói gì nhiều.  Đã có nhiều lần tôi lang thang giữa phố thị ấy giữa những cơn mưa tầm tã.  Cũng chẳng biết mình đi về đâu và tìm kiếm gì, nhưng vẫn cứ đi, theo sự thôi thúc của nỗi buồn.  Những người dân ngày ấy thấy được, có lẽ đã lấy làm ngạc nhiên lắm, và không khỏi lấy làm băn khoăn về con người mà họ luôn cảm thấy thật xa vời ấy.   


Trên bục giảng buồn:

Chiều lại chiều qua, trên bục giảng cao cao và giữa làn bụi phấn sương mờ, tôi đứng hóng những cơn gió biển luồn qua những khung cửa sổ, và thổi vào hồn mình lồng lộng.  Có đôi khi, tôi dừng lại giữa những tiết giảng và lắng nghe tiếng gió thổi thật sâu ở tận trong những góc khuất của tâm hồn.  Lớp học im ắng quá.  Thường thì lớp học nào tôi dạy, học sinh cũng luôn im lặng và lắng nghe.  Trong cái im ắng ấy, tôi nghe rõ tiếng rơi của giọt máu, rỉ ra từ nỗi buồn hoang dại trong trái tim mình.  Trong suốt đoạn đời tôi làm thầy giáo ấy, tôi ý thức được rằng, trong lòng mình luôn hiện hữu một nỗi buồn thật sâu thẳm và mênh mông.  Với tôi, bục giảng sao buồn quá!

Tôi tự nói với mình rằng, rồi mình sẽ đứng đây, ngày này sang ngày khác, rao giảng lại những lời kinh quen thuộc, mà tôi vốn đã thuộc lòng từ những ngày còn học phổ thông.  Và tôi sẽ đứng rao giảng miệt mài như thế, cho đến khi trở thành một... thầy giáo già.  Có lẽ hình ảnh "thầy giáo già" là một ám tượng mà tôi luôn muốn lảng tránh.  Không phải vì nó có gì không đẹp hay không hay.  Trái lại, nó còn là hình ảnh thiêng liêng đáng được tôn thờ.  Nhưng có một sự thật hiển nhiên là:  Cái hình ảnh ấy thường đi đôi với sự nghèo khó, bệnh tật và... sự thương hại.  Nghèo khó chẳng có gì đáng để xấu hổ.  Bệnh tật âu cũng là lẽ thường.  Nhưng tôi vốn là người quá kiêu hãnh để có thể chấp nhận bất kỳ sự thương hại nào, nhất là khi nó lại xuất phát từ chính những đứa học trò thân yêu, vốn đã từng xem mình như một mẫu hình thần tượng. 

Nói đến điều này, tôi lại nhớ đến hình ảnh của thầy dạy Văn, hồi tôi học năm lớp 9.  Ngày ấy, thầy chưa già, thầy luôn đạo mạo và chỉn chu trong y phục mỗi khi đến lớp.  Khi tôi trở thành thầy giáo, cũng chính là lúc tôi bắt gặp lại thầy ngồi ủ rũ, lặng câm bên bàn vé số trong những quán cà phê đông người, hỗn tạp.  Trên người thầy, chiếc áo ngày xưa thầy mặc trên bục giảng, giờ đã bạc phếch, sờn vai.  Tôi cảm thấy rất bất ngờ và hụt hẫng, chẳng biết phải ứng x ra sao.  Làm ngơ thì không đành, vì thấy mình lỗi đạo.  Còn muốn chào hỏi thầy, thì lại sợ làm thầy tủi hổ thêm, khi gương mặt thầy đã trở nên lạnh băng sau lớp kính cận dày, và ánh mắt thầy đã u buồn lảng tránh.  


Tiếng chim hót trong bụi mận gai:

Tôi đã buồn như thế trên bục giảng.  Tôi chưa bao giờ cảm thấy mình thực sự muốn gắn bó với nghề giáo.  Nhưng có một điều nghịch lý là, tôi lại thấy yêu thương vô bờ những ánh mắt vô tư và trong sáng đang hướng về phía mình, từ những hàng ghế bên dưới.  Những ánh mắt đó như ân cần gửi trao cả một niềm tin tưởng vô bờ, một sự ngưỡng mộ vô đối, mà tôi không thể nào nhẫn tâm phụ rẫy. Tôi đã bắt gặp một sự đồng cảm thật sâu với chủ nhân của những đôi mắt ấy.  Lý do cho sự đồng cảm đó có lẽ là vì, tôi ngày ấy, dẫu đã là thầy giáo, nhưng vẫn hồn nhiên vô lượng.  Tôi vốn không phải là người được sinh ra để "đấu đá" với đời.  Thế giới tôi độc hành mê mải, từ trong những năm tháng trẻ thơ cho đến khi trở thành thầy giáo, là thế giới diễm tuyệt của sách vở, của những câu chuyện cổ tích, của những điều cao thượng và đẹp đẽ.  Tôi luôn thấy mình ngỡ ngàng, bơ vơ, và bất lực trước những hiện thực không hay của cuộc sống. 

Càng buồn bao nhiêu, tôi lại thấy mình giảng dạy càng tận tình và hăng say bấy nhiêu.  Thái độ giảng dạy ấy càng làm học sinh tin yêu và ngưỡng mộ tôi hết lòng.  Chúng nhìn vào tôi để có động lực học tập.  Chúng tìm đến tôi để được chia sẻ và bảo ban.  Ngay từ khi còn ở cuối cấp hai, chúng đã nô nức kháo nhau mong đợi đến ngày được lên cấp ba, với hy vọng được làm học sinh lớp tôi chủ nhiệm.  Tôi biết được điều đó qua những tâm tình mà các em thố lộ.  Nhưng không ai biết được rằng, đằng sau thái độ tận tình và hăng say ấy, ngoài trách nhiệm nghề nghiệp, còn có một lý do sâu xa khác:  Tôi muốn dìm chết nỗi buồn - cái nỗi buồn huyền bí và ma mị:  
"Buồn như ly rượu đầy, không có ai cùng cạn
Buồn như ly rượu cạn, không còn rượu để say."

Như một nỗ lực để chiến đấu chống lại nỗi buồn mênh mông ấy trong lòng mình, trên bục giảng cao, tôi dồn hết mọi sức lực mình còn có được vào trong lời giảng.  Tiếng tôi giảng bài vang lên lồng lộng, như muốn thẩm thấu thật sâu và ở lại mãi mãi trong óc, trong tim của những đứa học trò ngồi bên dưới.  Lời giảng ấy khuấy động những buổi sáng tinh sương, những buổi trưa oi nồng và những buổi chiều êm ả.  Tôi miệt mài cất cao giọng mình như thế cho từng bài giảng trên bục cao, như thể mỗi bài giảng là một bài hát cuối đời, mà có giống chim thường líu lo hát trong bụi mận gai, líu lo hát với máu nhỏ từng giọt xuống bờ ngực hấp hối.  Với động thái ấy, tôi tự đánh lừa mình, với huyễn tưởng rằng khi sức mình đã được vắt cạn kiệt, nỗi buồn chắc hẳn cũng co quắp và tàn rũ theo. 


Lá thư chiều mưa và tình yêu huyền thoại:

Tôi đi học sớm một năm nên ngày tôi ra trường và đi dạy, so với các học sinh, khoảng cách tuổi tác thật ngắn.  Có thể chính khoảng cách ngắn ngủi ấy đã đôi khi làm nhạt nhòa cái lằn ranh biên giới giữa người dạy và người học.  Ngoài việc giảng dạy trong trường, tôi còn nhận lời đến dạy kèm cho nhiều nhóm học sinh tại nhà.  Tôi nhận lời dạy và dạy nhiều, không hẳn vì tiền, mà chỉ vì tôi muốn giết thời gian - cái thứ thời gian mà tôi luôn cảm thấy nó trôi qua một cách hết sức chậm chạp.  Những đồng tiền kiếm được ấy đã được tôi dùng chủ yếu để đốt cháy cuộc đời mình, qua những điếu thuốc thơm liên tục cháy vàng tay, đi kèm theo những ly cà phê đá đắng nghét và đậm đặc, làm đắng thêm cuộc đời làm thầy vốn đã đắng lắm của mình, khi chưa một lần hình dung ra được tương lai mai này mình sẽ ra sao.   

Vào một buổi chiều mưa rơi tầm tã, có một em học sinh nam băng mình trong mưa đến tìm tôi để trao cho tôi một lá thư và muốn tôi xem nó ngay.  Em học sinh nam ấy là học sinh lớp tôi chủ nhiệm.  Còn lá thư là của chị của em ấy - một học sinh mà tôi chỉ dạy kèm để luyện thi đại học thôi, chứ không đứng lớp dạy trong trường, ngoại trừ một số buổi dạy thế cho giáo viên bộ môn bận việc.  Với một thái độ ngạc nhiên, tôi vội mở lá thư ra xem và ngay dòng đầu tiên đã làm tôi cảm thấy khá "sốc":  "Thầy kính mến!  Lần đầu tiên xin cho em được gọi thầy bằng anh..."   Tôi đọc xuyên suốt lá thư và có cảm giác như mình đang nằm mộng giữa ban ngày.

Trong thư em thổ lộ tình cảm của mình và cho biết, hiện giờ, em đang bệnh rất nặng, em tha thiết muốn được gặp tôi.  Dù trời còn đang mưa to, tôi cũng cố gắng đến để gặp em như điều em muốn.  Khi đến, hình ảnh tôi bắt gặp là hình ảnh em đang nằm trên giường bệnh với ánh mắt đầy tuyệt vọng.... Đó cũng là lần sau cuối em và tôi gặp mặt nhau.  Tôi không nhớ rõ việc không còn gặp gỡ ấy chỉ là một sự vô tình của cuộc sống, hay em đã cố tình tránh mặt tôi, sau phút giây nông nổi vừa qua.  . 

Đó là lần đầu tiên tôi phải đối mặt trực diện với lời tỏ tình từ một học sinh nữ, nhưng đó không phải là lần duy nhất.  Lời tỏ tình thứ hai tôi nhận được diễn ra rất lâu sau đó, khi tôi không còn là một thầy giáo nữa và đã lìa quê hương lâu rồi, nay mới trở lại.  Lời tỏ  tình lần này, thậm chí, còn mang nhiều dáng vẻ huyền thoại hơn.  Sau nhiều nỗ lực liên lạc của em, cuối cùng, em và tôi đã hội ngộ nhau trong một quán cà phê vắng vẻ ngay trên phố biển năm nào.  Trong làn gió biển quen thuộc và gợi nhớ da diết những năm tháng xưa cũ, em đã thầm thì với tôi về mối tình lặng câm mà em đã ôm ấp trong suốt mười năm qua.  Em tha thiết muốn gặp tôi lần này chỉ để bày tỏ điều đó mà thôi.  Một lần rồi thôi, vì em giờ đã không còn là người của thế gian trần tục này... 

(Còn tiếp)

07/10/2012
Jeffrey Thai

No comments:

Post a Comment