Xã hội loài người vốn được cấu trúc theo dạng hợp quần,
trong đó các cá thể luôn có những tác động trực tiếp vào nhau, đôi khi hỗ trợ, đôi
khi đối kháng. Việc nhận thức được giá trị của bản thân, thông qua lòng tự trọng,
giúp các cá thể tồn tại và phát triển vững vàng, vượt qua được các mâu thuẫn đối
kháng thường xuyên nảy sinh trong quá trình sống hợp quần đó. Bên cạnh đó, lòng tự trọng cũng đóng vai trò
như một rào cản đạo đức cơ bản nhất, giúp con người soi rọi lại giá trị nhân bản
của bản thân, và qua đó, mỗi cá thể góp phần hỗ trợ cho sự sống của các cá thể
khác và, nói chung, sự phát triển tốt đẹp của toàn xã hội.
Trong phạm vi bài viết này, người viết xin được bàn về lòng
tự trọng ở khía cạnh thứ hai, tức là nghiêng về phương diện đạo đức nhiều hơn. Xin được nói về nó, trước hết, ở phạm vi cá
nhân, và sau đó, ở một bình diện khác cao hơn - bình diện quốc gia.
Điều trước tiên cần xác định là lòng tự trọng là một sản phẩm
của ý thức, và do đó, chỉ có con người mới có lòng tự trọng (vì con người là động
vật duy nhất có ý thức phát triển hoàn chỉnh).
Với đặc tính đó, vô hình trung, lòng tự trọng chính là thước đo giá trị
nhân bản của con người, giúp phân biệt giữa con người và các loài động vật khác. Một lòng tự trọng ít nhiều khiếm khuyết, hao
hụt là dấu hiệu cho thấy sự suy thoái đạo đức đang diễn ra ở một con người. Và khi một con người (được cho là) hoàn toàn
không còn có lòng tự trọng nữa, thì điều đó cũng có nghĩa là, giá trị nhân bản
của con người đó đã bị phủ nhận: cá thể đó
chỉ còn đơn thuần tồn tại như một động vật.
Trong xã hội loài người, những con người - động vật như thế không thể hòa
hợp với các cá thể khác và chẳng thể có được một đời sống tốt đẹp.
Có một điều mà người viết tự nhận thấy, qua kinh nghiệm sống
cá nhân, là: Ở xã hội của các nước phát
triển (như các nước phương Tây), lòng tự trọng (self-esteem hay self-respect)
thường được đề cập đến nhiều hơn (ở khía cạnh thứ nhất) như là khả năng nhận chân
ra được các giá trị hữu dụng của bản thân, và từ đó, có phương hướng phát triển
cá nhân thích hợp. Việc nhận chân đó, đi
kèm với sự phát triển, giúp con người có được niềm tin (trust) ở chính bản thân mình, và đồng thời, gieo được niềm tin về mình
nơi người khác. Do đó, để lên án một con
người nào đó đã có những hành động hay hành vi ứng xử vô đạo đức, đi ngược lại các
nguyên tắc đạo lý chung, người ta thường hay nói "Tôi không tin anh nữa"
(I don't trust you any more).
Trong khi đó, ở các nước kém phát triển hơn (như các nước Đông
Nam Á, trong đó có Việt Nam ),
trong những trường hợp như thế thì chúng ta lại có thói quen viện dẫn đến lòng
tự trọng nhiều hơn, đại khái như: "Bạn còn lòng tự trọng không mà lại hành xử
như thế?" Câu hỏi này vừa như một
lời cáo buộc, phán xét, vừa như một lời nhắc nhở, khiển trách, tùy trường hợp. Ở đây, dường như chúng ta trông cậy nhiều hơn
vào sự tự ý thức (hay vào lương tâm) của cá nhân người đó. Do đó, khi chúng ta cảm thấy hoàn toàn tuyệt
vọng về ý thức, về lương tâm nơi người đó, thì chúng ta thường buông lời phán
quyết cuối cùng là: "Bạn là một con người hoàn toàn không còn
lòng tự trọng nữa". Sau lời cuối
đó, hiếm khi nào chúng ta còn nghĩ, hay nói, hay có bất cứ một mối liên hệ nào
với con người như thế.
Để giải thích cho sự khác biệt đó trong cách phản ứng, tôi
cho rằng nó xuất phát từ sự khác biệt về xã hội. Ở những xã hội văn minh hơn, thường con người
ta mặc nhiên trao niềm tin cho nhau. Con
người luôn được mặc định là vô tội, cho đến khi nào có đầy đủ chứng cớ pháp lý để
kết tội. Chính vì mặc định về niềm tin đó
mà khi bị hụt hẫng, cái mà người ta cảm thấy mất mát chính là niềm tin. Trong khi đó, ở những xã hội kém văn minh hơn,
hay những xã hội mà con người vốn đã chẳng thể tin nhau, thì vấn đề lại không
phải là niềm tin - cái vốn đã không có, mà lại là lương tâm, là ý thức. Họ chỉ còn biết đánh động vào lương tri con người
như một cứu cánh sau cùng. Nói là cứu cánh
sau cùng vì ở những xã hội như thế, thường thì luật pháp cũng khá lỏng lẻo, con
người chẳng dám trông chờ.
Xét cụ thể vào cuộc sống xã hội của người dân Việt, chúng ta
dễ dàng thấy là lòng tự trọng là một khái niệm thật phổ biến, với những đặc thù
rất riêng mang tính dân tộc. Câu hỏi được
đặt ra là: Sống như thế nào thì được xem là tự trọng? Đây là
một câu hỏi mở, có rất nhiều đáp án khác nhau, tùy theo điều mà bạn đang muốn mổ
xẻ. Cá nhân tôi xin được trình bày ở đây
một đáp án mang tính khái quát lớn.
Đáp án đó chính là nguyên tắc: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân", dịch
ra tiếng Việt là "Những gì mình không
muốn, thì đừng làm cho người khác".
Đây là câu nói cổ xưa của Đức Khổng Tử mà rất nhiều người biết. Riêng tôi đã có dịp đọc nó từ ngày còn rất nhỏ,
vì nó được in trên lịch (ngày) treo tường.
Cũng cùng một ý nghĩa như thế, người Mỹ có câu: "Treat
others the way you want to be treated", dịch ra là, muốn người khác đối xử với mình
như thế nào, thì hãy đối xử với họ đúng như thế. Đây là câu nói mà đa số người Mỹ dùng rất thường
xuyên trong đời sống hằng ngày.
Câu nói của Đức Khổng Tử thoạt nghe có vẻ đơn sơ, nhưng lại
hàm chứa một triết lý sống lớn. Nó thể
hiện được lòng tự trọng của con người, và nêu lên được mối tương quan nên có và
cần có trong mối liên hệ con người. Hãy
xét xem: Không ai muốn đau khổ hay nghèo
khó cả, phải không? Thế thì đừng gây đau
khổ và đừng làm cho người khác đói nghèo.
Không ai muốn mình bị xúc phạm hay thóa mạ cả, phải không? Thế thì đừng bao giờ xúc phạm hay thóa mạ người
khác. Không ai muốn tính mạng mình bị đe
dọa, hay mình bị ngược đãi cả, phải không?
Thế thì đừng đe dọa và ngược đãi người khác... Thực hiện đúng nguyên tắc đó thôi, chúng ta sẽ
có được một đời sống tự trọng và xã hội sẽ trở thành một nơi chốn bình an. Đó là một sự tự trọng đúng nghĩa được dựa trên
cơ sở tôn trọng (quyền lợi, nhân phẩm và tính mạng của) người khác.
Tiếc thay, nguyên tắc nghe dễ thế, mà con người vốn vô minh
nên không phải ai cũng nhớ, cũng làm. Xâm
phạm nguyên tắc đó chính là nguyên nhân lớn nhất làm lòng tự trọng của con người
bị tổn hại và phá hủy. Phần lớn con người
đều quên hay không ý thức được mối tương quan giữa mình và các cá thể khác. Họ chỉ muốn mình tồn tại, phát triển và thịnh
vượng, mà không hề màng đến sự tồn tại, thịnh vượng và phát triển của người khác. Điều đó không chỉ phá hoại các riềng mối xã hội,
mà còn làm cho sự phát triển chung của toàn xã hội trở nên mất cân đối và chông
chênh.
Trong học thuyết chính trị của mình cách đây hàng nghìn năm,
Đức Khổng Tử đã có nêu lên những đòi hỏi căn bản của ông về người cầm quyền như
sau: Người
cầm quyền nên học tự kỷ luật, nên cai trị người dân của mình bằng chính gương
của mình, và nên đối xử với họ bằng tình thương và sự quan tâm. Nếu xét kỹ thì ta sẽ thấy rằng ba cái "nên"
mà ông nêu ra đó đều xoay quanh lòng tự trọng, cũng như xoay quanh nguyên tắc sống
tự trọng (cũng của chính ông) mà chúng ta vừa xét đến ở trên. Theo đó, ta thấy, chung qui, điều đòi hỏi cơ
bản và thiết yếu nhất ở một người cầm quyền chính là lòng tự trọng. Một người cầm quyền có lòng tự trọng hẳn sẽ
biết thương yêu và quan tâm đến người dân của mình, biết đặt quyền lợi của người
dân đen lên trên hết.
Nhìn vào xã hội VN hiện nay, chúng ta thấy điều gì đang diễn
ra? Chúng ta thấy có hàng ngàn dân đen ngày đêm
kêu oan cho những mảnh đất, mà họ cho là gần như bị cướp trắng. (Điều đó nói lên họ đã không được quan tâm và
thương yêu). Chúng ta thấy nạn tham nhũng
hoành hành trên diện rộng trên toàn đất nước, đưa VN xuống hàng thứ 123 trong tổng
số 176 quốc gia, trên bảng xếp hạng tham nhũng thế giới năm nay của tổ chức TI
(Transparency International). (Điều đó
cho thấy có nhiều các viên chức cầm quyền đã từ lâu không còn nghĩ đến việc làm
gương cho ai cả). Và rồi, chúng ta thấy
dư luận quần chúng đang mải bàn tán xôn xao về văn hóa... từ chức. (Dân chúng muốn các nhà cầm quyền từ chức vì
họ đã không chịu học cách để tự kỷ luật mình).
Điểm qua những điều đó, và đối chiếu với những đòi hỏi cơ bản
của Đức Khổng Tử về người cầm quyền, chúng ta có thể rút ra một kết luận hoàn toàn
khả tín là: Chúng ta đang có rất nhiều
những người cầm quyền không có lòng... tự trọng. Việc thiếu vắng lòng tự trọng ở các vị này
gây một sự ngạc nhiên lớn. Người ta ngạc
nhiên là vì một con người bình thường không có lòng tự trọng đã là một điều rất
đáng xấu hổ. Một người có trách nhiệm lớn
với xã hội, với người dân mà lại không có lòng tự trọng thì chắc hẳn họ không còn
biết xấu hổ là gì nữa. Người dân cứ thế
mà cảm thấy bẽ bàng thêm.
Khi một xã hội được
cầm quyền bởi một lượng lớn những người không có lòng tự trọng, thì còn có thể
sót lại một khoảng trống nhỏ nhoi nào trong đời sống xã hội, để lòng tự trọng
của người dân có chỗ để sống còn hay không?
Một xã hội mà lòng tự trọng - rào cản đạo đức cơ bản của con
người - không còn có chỗ sống sót thì tương lai của nó sẽ như thế nào là một điều
không khó đoán. Đó là điều mà những người
có lòng với dân tộc, với đất nước chắc hẳn không khỏi phải day dứt với chính mình.
Jeffrey Thai
No comments:
Post a Comment