Sunday, March 24, 2019

Đàn Ông Đàn Bà Trong Thân Phận Lứa Đôi - Nguyễn Văn Lục



Vài lời thưa

Bài viết này là sự góp nhặt những giai thoại dông dài xảy ra trong cuộc đời với những kinh nghiệm, những cảm nghĩ rời, trải dài không hệ thống, và nhất là do sự đọc của tác giả từ thời trẻ đến nay. Nó là một vốn tích lũy một đời người nên đôi khi độc giả không nên lấy trường hợp của mình, hoàn cảnh của mình, tôn giáo của minh như một nhận thức áp đặt và phê phán.

Được như vậy thì may ra độc giả « động não » thì đối với người viết bài này đã mãn nguyện..


Sẽ có một thiệt thòi chung khi một cộng đồng, một đất nước chỉ muốn tiếp nhận những gì giống mình thì đất nước ấy sẽ chỉ “nghèo đi” vì không thêm được gì. Và một đất nước, một cộng đồng mở cửa như đón nhận gió muôn phương, chấp nhận sự đa dạng khác biệt thì nó có thể có nhiều cơ hội “ giàu lên”. Bởi vì, nhận thức là đa dạng, là nhiều mặt, nhiều lẽ, nhiều bề.

Tự thân, sự thật, chân lý là cái dấu ẩn mà cái phơi bày ra chỉ là hiện tượng. Vì vậy người ta thường nói, hành trình của nhận thức là lên đường, đi tìm là chính yếu; phải tra hỏi và câu hỏi có khi quan trọng hơn câu trả lời.

Cho nên, theo đà tiến bộ, sự toàn cầu hóa không phải chỉ trong phạm vi kinh tế mà còn trong tư tưởng, hiểu biết và chia xẻ do sự tràn ngập thông tin.

Cái gì con người ngày nay cũng có thể thông suốt, cũng đào sâu, cững biết đến tận cội nguồn. Ngay cả trong phạm vi y học mà lục phủ ngũ tạng con người mà nay đều được khám phá, thử nghiệm và nhiều hy vọng thắng được bệnh tật, ngay cả ung thư vốn được coi là bất trị cũng có hy vọng chữa khỏi.

Nhất là trong lãnh vực Trí thông minh nhân tạo ngày hôm nay là một triển vọng tương lai mà chưa ai có thể suy đoán được hậu quả của nó sẽ đi về đâu?

Vậy mà chỉ riêng sự hiểu biết về chính con người thì lại chậm lụt nhất. Tôi là ai, anh là ai, chúng ta là ai? Câu hỏi thì có mà câu trả lời đôi khi mơ hồ khựng lại trong do dự và ngập ngừng .

Các khoa học về con người như các loại sách: dạy làm người, sách Đắc Nhân tâm chỉ là những hướng dẫn thực tiễn nhằm thành công ở đời mà không phải để hiểu đời.

Các khoa tâm lý trị liệu, khoa tâm thần học xem ra còn quá sơ sài. Mắc bệnh tâm thần, vào nhà thương điên là chỉ có chết mòn.

Triết học có đào sâu đấy, nhưng chỉ là những hệ thống, những trường phái đối lập nhau mà thực sự không biết nó đưa dẫn tư tưởng con người đi về đâu? Khoa Xã hội học là khoa hoa lá cành chán ngắt và vô bổ vì lý thuyết suông. Nhân chủng học có những tiến bộ đáng kể, nhưng vẫn còn quá mới mẻ chỉ là những bước dò dẫm khám phá từng vùng, từng chủng loại của một thời kỳ nhất định.

Tâm Lý học và Phân tâm học thì nhiều phần đi chệch hướng, càng đào sâu, càng không thể đưa ra một kết luận nào. Và một trong những hiểu biết về người khác phái – như người nam, người nữ – còn nhiều tắc nghẽn vì đường vào nhiều ngõ chặn, uẩn khúc.

Câu châm ngôn L’homme, cet inconnu từ xưa đến nay xem ra vẫn còn đúng.

Đấy là những phát biểu của đại triết gia, các nhà tư tưởng lớn không phải của người thường. Tác giả còn nhớ, khi còn trẻ, ngạc nhiên vì không hiểu tại sao con người lại bí hiểm đến như thế!!

Còn về phía phụ nữ thì người viết cũng phải thú nhận càng lớn, càng tiếp xúc, càng thấy sự xa lạ đến phải thốt ra rằng: Ôi, đàn bà, kẻ xa lạ ấy.

Có nhiều vấn đề liên quan đến giới phụ nữ đã bị đặt sai vấn đề ngay từ đầu vì đã không thông hiểu thân xác người phụ nữ cũng như vai trò xã hội của họ trong một cộng đồng người. Chẳng hạn từ những vấn đề cổ lỗ xĩ như tiết trinh, vấn đề giải phóng phụ nữ hay chỉ là giải phóng cái âm hộ, đến vấn đề đòi hỏi bình quyền, vấn đề cột trụ một vợ một chồng càng ngày càng cho thấy sự phôi pha và vô hiệu quả của nó.

Có nghĩa là, vấn đề nào của con người, đụng vào là thấy rắc rối như tơ vò.

Nhưng có lẽ vấn đề gay go nhất hiện nay là vấn đề ly dị.

Nó phá vỡ cái tương quan nền tảng gia đình vốn được tôn trọng như thể những nguyên lý bất di bất dịch. 100 người trong hôn nhân thì nay số ly dị là 50 đến 70%  tùy noi, tùy hoàn cảnh. Và hơn thế nữa. Cái số còn lại ít ỏi thì cũng khập khiễng, ẩn nhẫn và chịu đựng theo cái kiểu chin bỏ làm mười.

Xin đọc một thống kê sau đây tại một nước phát triển như Canada

Vài con số thống kê của Canada về vấn đề li dị. Nguồn: http://www.vanierinstitute.ca

Bề ngoài như vậy bề trong khóc thầm. Không chính thức ly dị thì sinh ra tệ nạn ăn vụng, sống ngoài hôn nhân.

Hậu quả của cuộc sống lứa đôi

Tại sao con người sống cần nhau, sống có nghĩa là sống với người khác như một cộng sinh, như một định mệnh như một lý lẽ căn thiết ở đời mà lúc nào cũng có thể vở đổ, chia lìa?

Đã trót ly dị rồi thì chắp nối lại; tưởng yên, tưởng đã kinh nghiệm, đôi khi lại rắc rối thêm. Càng chắp nối đôi khi càng rắc rối thêm. Đã một lần đứt gánh thì đã một thì sinh hai, hai sinh ba, ba sinh bốn, bốn sinh năm mà cứ thế mà sinh mãi ra.

Trầm luân và hệ lụy! Phải chăng đây mới thật sự là kiếp nhân sinh?

Phải chăng đây có phải là một thất bại của cá nhân hay của một trật tự một vợ-một chồng đã đến lúc tan rã?

Và đặt thẳng vấn đề: Hôn nhân với một vợ-một chồng có còn là căn bản tối ưu của cuộc sống lứa đôi nữa hay không?

Trong hôn nhân sự trung thành là một đòi hỏi tất yếu, đòi hỏi không điều kiện, điều không có không được.

Nhưng khi biết rằng một ngày nào đó sẽ phôi pha, sẽ muốn thay đổi, sẽ muốn chấm dứt thì phải chăng: Không bao giờ chúng ta trung thành với chúng ta cho bằng chính lúc chúng ta thay đổi?

Và phải chăng chính lúc thay đổi mới là lúc ta trung thành! Thay đổi mà vẫn đóng kịch trung thành che đậy bề ngoài thì đó chỉ là ngụy trang, đánh lừa, dối trá?

Đó phải chăng đó là một khủng hoảng lớn nhất, phổ biến nhất trên toàn thế giới liên quan đến nền tảng của một gia đình và xã hội hiện nay?

Trong anh em, trong vòng liên thuộc, trong bạn bè, hàng xóm, trong mọi giai tầng, trong mọi lứa tuổi đều có những người ly dị. Với những đứa con, bơ vơ lạc lõng – nhiều phần hỏng đời – không học hành, nếp sống buông thả, không ai hướng dẫn kiểm soát! Chúng sẽ là gánh nặng cho xã hội.

Đã thế, còn có một số rất ít phụ nữ ảnh hưởng tây học, coi ly dị là một nghề không vốn. Không dám nói là một thứ kỹ nghệ không khói. Nhưng mỗi lần gặp may, mát phận thì người phụ nữ giầu ra. Ba lần ráp nối có ba căn nhà.

Nền tảng gia đình ngày nay là một sự mong manh dễ đổ vỡ nhất!

Ngày nay, người ta có thể bảo hiểm bất cứ thứ gì, từ bệnh tật đến trộm cướp.ngay cả thiên tai, như hạn hán, bão lụt. Nhưng có một thứ không bảo hiểm được, không ai dám bảo hiểm là hạnh phúc lứa đôi, tính chung thủy một vợ một chồng.

Cách đây cũng đã lâu, tác giả có viết một bài trên Talawas về một bữa tiệc Noel. Nó phản ảnh đúng cái xã hội phiền đa và phức tạp ngày nay. Cảnh rổ rá cặp lại, cảnh con ông con bà, cảnh lấy nhau tròng chéo, Cảnh hai ba đời chồng, hai bà đời vợ ráp nối lại sẽ gây biết bao phiền toái trong một bữa tiệc Noel. Xin đọc cả câu truyện mới thấy rõ được.

Nhan đề câu chuyện là, “Câu chuyện mời ăn “rê vây ông” của Marie”.

Do Marie ly dị đôi lần và những đối tác của cô cũng ly dị tương tự như vậy. Rồi di sản – ngoài tài sản vật chất có thẻ cắt xẻ, chia ba, chia tư, chia năm – là những đứa con như những cái De trop lại không thể chia đôi, chia ba như cái bánh. Chúng không chịu “không xếp hàng theo bên này, bên kia”. Có thể sau này chúng là “ thứ con ông, con bà, con tôi, con người ta và con chúng ta” trở thành những vấn đề đau đầu về huyết thống, về pháp lý, về gène, về tương lai, về nạn ghép giống, về di truyền, về cá tính và về tương lai nền tảng gia đình.

Chúng từ những lần sinh đẻ ngoài ý muốn hay từ những kết hợp thiện ý tưởng không thể tách rời, nay về mặt xã hội danh nghĩa ai là cha, ai là mẹ, ai là anh em, ai là máu mủ trong liên hệ được nhìn nhận và bảo bọc càng ngày càng trở nên một nỗi thao thức, nỗi lo âu của các bậc phụ mẫu sinh thành.

Câu chuyện bắt đầu như thế này:

“Hôm nay đã là 23, không phải là lúc tìm lỗi phải về ai mà lo đi mua sắm cho kịp thức ăn cho bữa tối 24-12. Gà tây cho cục cưng Peter, cho Jane. Món Tourtière, món ăn truyền thống của người Québec cho Sylvie, Roger, rồi Pierre, Michel và Nancy. Đã hết đâu, còn món Ý cho Cifelli nữa. Không có là không được với anh chàng này. Dân Ý chính hiệu Sicilia.

Đối với Marie, đây là bữa ăn “Rê vây ông” nhớ đời. Không ngờ tập họp được đông như vậy. Cô mỉm cười ra xe: Phải đi chợ mau kẻo không kịp. Chẳng hiểu có sự sắp xếp của Chúa hay Ông già Noel hay không? Nghĩ bụng xứ người thật rắc rối thật!”

(Nguyễn văn Lục, Talawas, 2004)

Phần phụ nữ, cuộc hùn vốn thổi cơm chung không phải chỉ là căn nhà, cái xe hơi mà còn cái “vốn thân xác” cần đuợc trả giá, tính lời lỗ sao đây? Chữ trinh – theo các cụ đáng giá ngàn vàng chứ đâu có cho không? Chữ trinh giữ gìn cả một đoạn đời, chỉ có ngần ấy thôi nào có thể cho không, biếu không. Cô Kiều nát bấy đời hoa gặp lại Kim Trọng còn thỏ thẻ quyết liệt: “Chữ trinh còn một chút này”. Chút này là chút gì? Một chút tính ra vàng, ra đô la là bao nhiêu?

Gớm cụ Nguyễn Du sao khéo nịnh cụ bà Hồ Xuân Hương thế!

Trong chuyện chăn gối, đàn ông ví như ngón tay, đàn bà như cái lỗ mũi đang bị ngứa. Ngón tay ngoáy lỗ mũi thì ngón tay sướng hay lỗ mũi sướng? Các phụ nữ lấp liếm: ngón tay sướng! Thế thì còn nói gì được nữa.

Trong một chương trình truyền hình của TV Trung Hoa, có chiếu một câu chuyện một cặp vợ chồng mà người chồng là một nghệ sĩ, say mê đàn hát. Nhưng đến lúc người vợ không chấp nhận đời sống hôn nhân túng thiếu nên đòi chia tay. Chị đẩy một cái xe nhỏ có đứa con gái nhỏ độ 3 tuổi và chị đang mang thai để ra khỏi nhà. Khi ra đến cửa, chị còn ngoái lại đòi anh chồng trả cho cái: tình phí, tức là phí chia tay. Sau khi đã nhận Tình phí chị mới bỏ đi cái một, không ngoái đầu lại.

Cuộc chia tay thật bẽ bàng: có tiền thì còn tình nghĩa, hết tiền thì tình nghĩa cũng cao bay chạy xa.

Thường người nào muốn chia tay thì phải trả cái tình phí ấy và phần đông đàn ông thường khởi động nên phải trả. Chuyện hôn nhân ở nước Tàu là chuyện gả bán trên căn bản Tình và Tiền. Có khi tình phí tốn kém đến 2 triệu Nhân dân tệ, tương đương với số tiền 31.4000 USD. Nhiều đấy chứ.

Câu hỏi nền tảng, quyết liệt là: Tại sao Nam-Nữ được an bài như một định mệnh mà quyền thế con người đôi khi không tháo gỡ được lại trở thành nan đề chia lìa?

Sợi chỉ tơ hồng tưởng không tháo gỡ được, nay dễ quá có thể tháo tung.

Chưa kể còn bao nhiêu lời ước thệ trên giấy trắng mực đen? Đó là những vấn đề chẳng những liên quan đến tôn giáo, xã hội mà còn thuộc bản chất con người. Đó là vấn đề của vấn đề mà đôi khi cách đặt vấn đề, cách đối diện vấn đề quan trọng hơn chính vấn đề.

Người viết sẽ cố gắng lần lượt tìm hiểu. Nhưng như một lời thú nhận công khai, nói trước: Chính thói quen, sự nhàm chán là nguồn gốc mọi duyên cớ? Có mới nới cũ. Cái gì dùng mãi cũng chán. Cái áo quần, món ăn ngon, cái xe, cái nhà luôn luôn cần thay đổi.

Nhưng con người làm sao thay đổi như cái áo?

Có lẽ, phải thay đổi tâm lý cái đầu, thay đổi cách nhìn. Phải làm thế nào mà mỗi lần “đụng trận” thì như thể lần đầu? Người đời đã hoài công đưa ra những “ kỹ thuật” mới, nhưng càng nhiều kỹ thuật càng đi đến chỗ nhàm chán bế tắc!

Hay tại lòng tham của con người? Tham giàu, tham danh thì tại sao không tham nhiều vợ, nhiều chồng?
Nếu vậy có lẽ cần một thứ “Triết lý chấp sinh” của Nguyễn Công Trứ.

Một triết lý quân bình. “Không Phật, không tiên, không vương tục”. Một hiện sinh tự tại. Một hiện sinh Nhân bản. Một Hiện sinh toàn diện. Trong cái biết, chính cái biết đủ trong đó đã mặc định là loại trừ lòng tham.

(Tham khảo thêm Vũ Đình Trác, “Triết lý Chấp sinh của Nguyễn Công Trứ” , Hội Hữu xuất bản, California 1988)



Có lẽ ta cần một thứ triết lý “loại trừ lòng tham”. Nhưng không khéo lại rơi vào triết lý vô vi của Lão Tử.

Bài học mới đây nhất: Vợ chồng môt tỷ phú gia giàu nhất nước Mỹ, lấy nhau 25 năm, 4 mặt con, nay vừa mới tuyên bố ly dị? Sau đó, ông chồng tuyên bố có vợ mới, theo cái kiểu cũ người mới ta.

Điều gì khiến họ quyết định ly dị? tiền bạc, vật chất, sắc đẹp, tính tình, thói quen, sự tham lam hay sự nhàm chán?

Trở về nguồn để nhìn nhận ra tính cách tương đối của con nguòi

Để đi lại từ đầu, chúng ta tìm hiểu xem tổ tiên con người đã có mặt và sống như thế nào? Họ có sống vui không? Sống hòa điệu không?

Trời đã sinh ra con người gồm đàn ông và đàn bà. Đàn ông được coi là con đực, đàn bà được coi là con cái. Nói như thế có điều gì xúc phạm không nhỉ? Thực sự nó là như thế trong muôn loài muôn vật mà do một Đấng quyền năng đã tạo thành. Nó không thể từ chỗ không có làm ra có. Nó có một khởi đầu. Một chỗ khởi đầu còn mù khơi, hỗn mang chi sơ.

Cái hỗn mang chi sơ với vật chất với năng lượng vật lý khởi đầu có thể cách đây 13 tỉ rưỡi năm. Còn trái đất ta ở cũng tròm trèm 4 tỉ rưỡi năm. Các sinh vật có trước con người 3 tỉ 8 năm.

Có con người thì mới vào khoảng 2 triệu rưởi năm.

(Xem thêm Yuval Noah Harari, “Sapiens. A brief history of mankind”. Lược sử loài người. Bản dịch của Nguyễn Thủy Chung. Hiệu đính Võ Minh Tuấn, nxb Trí Thức, trang 336)



Con người xuất hiện muộn nhất so với muôn loài. Nhưng con người xem ra trội vượt nhất.

Đọc đến đây, không biết người khác nghĩ thế nào? Chứ bản thân người viết bài này, thật sự choáng váng đến rùng mình rúng sợ không dám nghĩ tiếp nữa. Run sợ trước cái vô cùng lớn cũng như cái vô cùng nhỏ của vũ trụ. Về cái thời gian miên viễn kéo dài như vô tận.

Người viết cảm thấy sự nhỏ bé và hèn mọn của con người. Cảm nhận mình không chắc có bằng một hạt cát trên cõi đời này. Ôi, một hạt cát trên tỉ tỉ hạt cát trước và sau thì cuộc đời một cá nhân có nghĩa lý gi? Như bị choáng ngợp! Như bị ngập ngụa trong cõi vô biên!

Người viết như mọi người đã chứng kiến biết bao nhiêu hạt cát được coi là “đứng nhân tài” đã ra đi và không để lại gì?

Đây hẳn là một cảm nghiệm siêu hình mà hầu như là một cảm giác có thật, có thể sờ thấy về cái mong manh của kiếp người.

Kiếp sống con người thời xưa mong manh biết là chừng nào! Có là đấng quyền uy “đầu đội trời, chân đạp đất” đi nữa thì chết vẫn là hết. Con vua cháu Chúa chết cũng là chết.

Nếu chấp nhận tính cách phù vân của kiếp nhân sinh, tại sao con người vẫn chấp nê, so bì, bon chen, tị hiềm, tính toán như thế, chia lìa lứa đôi như thế? Được gì và ích gì?

Đặt vấn đề tổ tiên loài người đã sống như thế nào? Họ đã để lại bài học gì? Và ta học được gì?

Con vua cháu chúa đi nữa cũng không quả khỏi kiếp người! Các bậc vua chúa thời xưa như vua nước Anh Edward nước Anh I (1237-1307) có 16 người con, độ tuổi thọ trung bình là 12.4 tuổi.

10 trong số 16 người con – 62% chết ở tuổi ấu thơ. Chỉ có 6 người sống quá 11 tuổi. và chỉ có ba người –18% sống quá tuổi 40.

(Xem Yuval Noah Harari. Ibid., trang đầu)

Phần tác giả, trước đây khi viết về các công chúa nhà Nguyễn (1802-1945) trong một bài viết nhan đề: “Tấm vải bọc điều”. Người viết nhận thấy số tử vong nơi các công chúa còn thấp hơn nhiều. Độ tuổi thọ trung bình của các công chúa là 8.7 tuổi.

Khi chết ở độ tuổi lên 5, lên 6 thì có là con ông Trời nghĩ lại cũng chẳng ích gì?

(Nguyễn Văn Lục, “Tấm vải bọc điều”, Talawas. Năm 2004)

Một cuộc sống sinh ra và chưa kịp sống thì đã lụi tàn, như “hoa sớm nở tối tàn” thì liệu cách ứng xử nào là thích hợp nhất?

Từ cái chỗ mù khơi vô cùng không biết từ bao giờ – có thể là hai con người. Vâng, phải có hai mới thành giống người mà ta gọi là nhân loại. Và loài người đã có mặt từ lâu – từ triệu năm trở lên như nói ở trên với con người Homo nói chung – Xuất phát từ Châu Phi mà tỏa ra cùng thế giới. Có 6 loại người Homo trước khi có lịch sử con người Homo Sapiens ngày nay.

Trong khi đó các thể chế tôn giáo mới chỉ xuất hiện hơn 2000 năm trước đây.

Tại sao tôn giáo lại xuất hiện muộn màng như thế? So với sự có mặt của con người như thế thì nào có lâu là gì?

Đây là những thắc mắc trăn trở đặt ra trong tâm tư người viết. Thế thì sự có mặt của con người cả vạn năm trước không lẽ không được cứu rỗi vì các tôn giáo chưa có mặt?

Trong Triết học, triết gia Karl Jaspers đã nhận ra rằng trong lịch sử loài người có một thời kỳ huy hoàng, sáng chói hơn bao giờ hết. Ông gọi đó là Thời kỳ Trục. Như cái Trục của một bánh xe, nơi nan hoa đồng quy; khi bánh xe lăn thì lăn quanh một cái trục. Bánh xe lịch sử cũng được ví như vậy. Cái gọi là Thời Trục (Période axial), cái bình minh của lịch sử nhân loại mà cùng một thời điểm xuất hiện những nhà tư tưởng vĩ đại những vị khai sáng ra các tôn giáo lớn, không hẹn mà gặp cùng gặp nhau ở một điểm đồng quy (Oméga) với những tên tuổi như Socrate xuất hiện ở Hy Lạp (399 trước Tây lịch), Khổng Tử khởi đi từ Trung Quốc (551 trước Tây lịch), Chúa Giê su Cứu thế xuất hiện làm người ở xứ Judeée nhỏ bé của Do Thái (bắt đầu Tây lịch), Phật Thích ca có mặt ở Ấn Độ (c. 563/480 – c. 483/400 trước Tây lịch).

Không ai có thể lý giải tại sao “các đấng thiên tài” không hẹn nhau mà gặp ở xít xoát một thời điểm và đưa ra những “tuyên ngôn tuyệt sắc” có một không hai để lại những thông điệp mà hàng tỉ người trên trái đất ngày nay còn tuân thủ?

Và đặc biệt cả hai vị đặc sứ là Jesus và Phật thì hầu như không để lại một sách vở nào và được coi như hai người mù chữ. Các lời rao giảng của họ sau này do các đệ tử chép lại.

Phật thì nói bâng khuâng, tổng quát nhất. Ngài phán trong Tứ Diệu Đề, đời là bể khổ mà trong đó bể khổ là sinh lão bệnh tử.

Theo suy luận của người viết, bốn vế tóm lược đời sống của Phật xem ra không chỉnh.

Có thể đúng ba vế sau mà không chắc vế đầu. Sinh ngày nay chưa hẳn đã khổ mà trong đó nhiều người còn không muốn đẻ. Tỉ lệ sinh sản có nơi là 1.3, 1.5. Chẳng lẽ như thế, chỉ phụ nữ mới gặp đủ bốn cái khổ? Đàn ông chỉ có ba. Ngày nay, nhiều phụ nữ cũng từ chối việc sinh đẻ thì sao? Rồi sau này có cấy giống, có truyền sinh nhân tạo thì cái “Phòng cho thuê đẻ” có thể ế vì không có người thuê?

[“Sinh” trong bể khổ nhà Phật, “sinh lão bệnh tử” là một bị động từ chứ không phải là chủ động từ; con người (được) sinh ra, rồi (có thể) mang bệnh, và già (dần đi) và đến lúc nào đó sẽ chết. – DCVOnline.]

Theo thiển ý, giá thay được chữ Sinh bằng chữ Sống thì tuyệt vời. Sống là khổ. Cả cuộc đời là lăn lộn để sống, lam lũ, tranh đua, sướng chưa thấy đâu, khổ thì muôn vàn.

Cho nên, sống mới là nguồn cội của khổ.

Nhất là sống với nhau. Sống với người khác phái trong tương giao vợ chồng!

Còn Chúa thì luôn có giọng điệu răn đe con người.

Mà đối với người viết, câu nói tuyệt chiêu của Ngài là:

“Thằng nào, con nào có ngon thì cứ việc lấy đá mà ném chết người đàn bà – mà các ngươi coi là con đĩ ngựa này đi.”

Không một đứa nào dám ném cả và lấm lét bỏ đi hết.

Điều đó cho thấy, Chúa là người thấu rõ “cái tẩy sất” của con người. Đã là con người thì đều phạm tội mà tội to lớn nhất, như cái sà trong mắt mọi người là tội liên quan đến tình dục. Người đời phạm đủ thứ tội, nhưng tội tình dục là nhiều nhất, phổ cập nhất hầu như không mấy ai thoát khỏi như trong câu chuyện vừa kể trên

Trong các tôn giáo, kẻ đi sau lẹt đẹt như Hồi giáo thì mới có từ 1400 năm trở lại! Tiên tri Muhammad sống khoảng 570-632 sau Tây lich

(Xin xem cuốn “L’Islam d’hier et aujourd’hui”, Bernard Lewis, phần Prologue)



Các tôn giáo ấy cho đến thế kỷ 18, trong đó khoa học chưa phát triển, do ám ảnh về sự chết yểu nên có một xu hướng tự nhiên, coi sự chết như một định mệnh an bài. Ai sống đến 50 tuổi được coi là lão, cụ già. Trong cái tinh thần ham sống sợ chết, tôn giáo như một giải pháp cứu rỗi, như một dọn đường cho con người tìm về thế giới bên kia được coi như một quê hương đích thực và vĩnh cửu.

Cái chết đóng vai trò trung tâm của cuộc sống. Sống là để sống về. Như thể sống gửi thác về. Sống trong ít năm nên chỉ là tạm gửi. Chết là trở về quê thật là cái vĩnh hằng. Con người cho dù đang an mạnh mà lúc nào cũng đứng bên bờ tử sinh..

Nhưng nhờ khoa học kỹ thuật tiến bộ, xã hội văn minh đã kéo dài sự sống con người như hiện nay – sống đến 80, 90 tuổi – thì theo thiển ý, những bận tâm về cái chết đã giảm nhẹ và cũng cùng một lẽ ấy, có lẽ tín đồ tôn giáo cũng giảm theo?

Tôn giáo trở nên không cần thiết vì con người không bám víu vào thế giới đời sau như giải thoát, một cứu cánh nữa.

Có một tỷ lệ nghịch giữa sống thọ và niềm tin vào tôn giáo, như một lẽ sống đời sau không còn là một bận tâm của con người?

Khi đói khát, nghèo đói chiến tranh với chết chóc gần kề, trước mặt, mỗi ngày thì hơn bao giờ hết, người ta tìm đến một bám víu đời sau. Khi no cơm ấm cật, tiền bạc dư thừa, sống lâu trăm tuổi thì cần gì đến sự cứu vớt của thần linh?

Không lạ gì nhà thờ nay chỉ là chốn vãng lai của người cao tuổi gần đất xa trời!

Giáo hội tại vùng của người viết – nhà thờ thì nhiều – giáo dân ngày càng thưa thớt như buổi chợ chiều. Ơn gọi làm linh mục ngày một hiếm hoi, nên họ có chính sách kêu gọi các linh mục tại các nước Châu Phi, Nam Mỹ đến để bù khuyết vào chỗ trống linh mục bản địa!

Điều đó theo thiển ý chỉ là một trám chỗ nhất thời mà không giải quyết được từ căn nguyên cội nguồn, tại sao người tín hữu lìa xa nhà thờ?

Nhiều khi chúng ta vô tình hay cố ý quên những điều đó như vừa nêu trên. Quên có thể được coi như một tội ác đối với tổ tiên loài người.

Nhìn lại tổ tiên loài người trong thân phận lứa đôi

Nhìn lại quan niệm đôi lứa thời tổ tiên con người. Thời hồng hoang lịch sử với những nét đẹp quyến rũ. Dĩ nhiên, người viết không đến nỗi khờ dại gì mong muốn sống lại như tổ tiên loài người. Nhưng cũng phải nhìn nhận nó có những mặt đáng tôn trọng

Loài Homo sapiens, tổ tiên loài người, sở dĩ vượt lên trên các chủng loại khác là nhờ có bộ não lớn, dáng đứng thẳng, biết dùng đá và cuối cùng điều vô cùng quan trọng là biết dùng lửa.



Cái mối tương quan và diễn biến quan trọng trong loài Homo sapiens là biểu tượng giữa hai nhân vật Adam và Eve- được người Thiên Chúa Giáo cho là ông tổ của loài người. . Sự diễn biến mối tương quan đàn ông- đàn bà trong suốt chu kỳ ấy diễn ra như thế nào xin được trình bày tóm lược ở đây một phần qua hình tượng Adam và Eve.

Điều người viết thất vọng là chúng ta ngày nay biết quá ít, nếu không nói quá sơ sài về tổ tiên loài người. Vì thế ngày nay, đã có quá nhiều những “ phụ tính” được gán ghép vào trong quan hệ lứa đôi.

Vì thế, sự tìm hiểu mối tương quan đàn ông-đàn bà chỉ thật sự hữu ích nếu chúng ta cố gắng “bỏ vào trong ngoặc” những thành kiến, những thói quen suy nghĩ mòn, những định kiến tôn giáo, luân lý và tabou đủ loại.

Những khung suy nghĩ trên chúng chẳng giúp gì cho việc tìm hiểu về mối tương quan hữu cơ ấy mà chỉ dẫn đưa tới những ngộ nhận, những hiểu lầm, những tranh cãi vô tich sự. Bỏ tạm những thứ lỉnh kỉnh ấy đi, nó sẽ mở ra cho chúng ta một thời kỳ hồng hoang lịch sự đầy vẻ đẹp và quyến rũ, đầy giá trị văn hóa bầy đàn của thời kỳ hái lượm. Nó là thứ vườn địa đàng của Adong-Eve trước khi họ sa ngã, mất sự sủng ái của Thượng Đế.

Ít ai nhìn thấy được cái vẻ đẹp thuần khiết, tự nhiên, thong dong và tự tại, triển nở mà không bị bất cứ một ràng buộc, một huấn lệnh, một cấm kỵ nào ngăn cản.

Đến với nhau như một thu hút của cây kim nam châm, hòa vào nhau như hai vật có súc tác, quyện vào nhau như da với thịt, như đói thì ăn, khát thì uống.

Mỗi lần là một chan hòa, một nhịp sống theo tiếng trống bập bùng, ngọn lửa than hồng còn bùng cháy cho đến lúc lụi tàn cũng là lúc tàn cuộc. Keo sơn, khít vào nhau mà không một đòi hỏi, không một làm khó dễ, không phải kỳ kèo tính toán, không một đố kỵ, ghen tuông tranh dành như một mảnh đất chung.

Mọi sự là của chung, của bầy đoàn, kiếm ăn chung, chia xẻ chung, cùng làm cùng hưởng.

Không có ý thức cá nhân nên không có tinh thần cất giữ riêng, dấu diếm che đậy.



Thân xác người đàn bà cũng vậy là của chung nên là một mảnh đất màu mỡ ai vào cũng được và nếu có mang bầu thì đứa con là thuộc bầy đoàn, không của riêng ai.

Hãy để cho tiếng nói thiên nhiên phát xuất từ lòng đất, từ trồi non, từ cơn mưa đầu nguồn, từ tiếng chim líu lo, từ cánh rừng bạt ngàn cất lên.

Vì thế, người viết vẫn chu đáo thích ngầm những câu thơ của Hàn Mạc Tử:

“Ai hãy làm thinh, chớ nói nhiều, để nghe tiếng nước hồ reo.” – Đà Lạt trang mờ, Hàn Mạc Tử (1912-1940).

Chính trong cái tinh thần đó ta đọc được một cách thích thú đời sống hoang dã của tổ tiên loài người và không khỏi mơ mộng một cuộc sống quay trở lại sống hòa với thiên nhiên..

Cũng lại chính trong tinh thần đó mà người viết mê mẩn với những cánh rừng Amazone, với mầu sắc chói lòa rực rỡ, bãi cát bạt ngàn, âm nhạc nhộn nhạo hưng phấn của điệu Samba, sắc thái đa chủng tộc, đa văn hóa. Sự đề cao vẻ đẹp khỏe mạnh tươi mát của thân xác với vú ngực, với chiếc mông đít quá khổ mà co thể gọi chung là một thứ văn hóa “Le culte du corps” (Sự ca tụng thân xác), ca tụng vẻ đẹp của nó dưới nhiều hình sắc và vượt qua hàng rào giai cấp phân biệt giàu-nghèo.

Và nếu được hỏi dân tộc nào, chủng tộc nào sung sướng thì câu trả lời của tác giả đã có sẵn câu trả lời.

Trong dịp mùa hè vừa qua, người viết có dịp ra ngồi ở một công viên rộng lớn – hôm đó có lễ hội gì không biết – chỉ thấy sự nhộn nhịp hưng phấn – mà hôm ấy có dịp quan sát ông đi qua bà đi lại. Ở khoảng cuối hay đầu của công viên, có dựng lên một sân khấu nổi với tiếng nhạc, nhất là tiếng trống cung cách Phi Châu hay Nam Mỹ..

Người viết đã có dịp quan sát nhiều giới trẻ đủ sắc dân diễn hành qua mặt.

Với những người phụ nữ phần đông là da mầu, vẻ mặt họ vui tươi, hồn nhiên, hớn hở, không mặc cảm, ăn mặc rất bắt mắt, ngực nở, mông to lũ lượt đi qua mặt .

Thú thực, người viết không thấy cái gì là “dơ dáy” cả trong cách phục sức ấy. Họ có hở nữa cũng vẫn lồ lộ một vẻ đẹp Trời cho. Chỉ thấy như hiển lộ vẻ đẹp tự nhiên của thân xác. Như ngắm một bông hoa. Như ngắm một chồi nụ. Như ngắm cảnh tiên nữ tắm ở suối tiên.



Trong khi đôi khi nhìn mấy nữ ca sĩ Việt Nam trẻ hát trên sân khấu, mặc áo dài hở hang, tự nhiên cảm nhận một sự “dơ dáy” đến khó chịu, không muốn nhìn. Một thứ body language rất hạ cấp! Tại sao vậy? Chỉ vì một bên tự nhiên, một bên cố tình làm bộ.

Nhiều người trong số các phụ nữ sắc tộc còn vừa đi vừa hát và họ sẽ hòa nhập vào đám đông nhảy múa ở sân khấu đằng kia trong chốc lát nữa đây. Họ đến đây là để hòa nhịp vào dòng sông văn hóa, nhảy múa và ca hát như đã làm như thế nơi những xứ sở xa xăm, núi rừng bạt ngàn. Mà một thời họ đã sống trong các bộ lạc mà đôi khi chưa có bước chân người ngoại thuộc dẫm lên các vùng núi thiêng liêng ấy.

Trong khi đó, có thể là một số phụ nữ Hồi giáo lại chùm đầu, trải tấm vải nhựa cùng con cái ngồi thiu thỉu riêng một góc, không ai nói với ai, xa lạ và cô quạnh.

Quý bạn tự có câu trả lời ai trong số họ ai là người sống hạnh phúc? Một thứ hạnh phúc miên viễn, tự nhiên, không cần che đậy.

Ở đây người viết cũng đố kỵ không muốn bàn tới những quan niệm Nhị Nguyên tính về con người vốn đã lỗi thời, phân biệt hồn xác như hai thực thể đối lập trong cùng một con người. Con người là một, một xác thể và một tinh thần. Đề cao cái nào, hạ bệ cái kia đều là thái độ bất xứng cả.

Nhiều lúc cũng thú thực là chán ngấy với sự giao cảm văn hóa nghèo nàn trong thân phận người Á Châu với rào cản, với khung giáo điều, với ngăn cấm làm khô héo cuộc sống như một sa mạc rạn nứt vì hạn hán. Một Á Châu buồn hiu mà lý lẽ tồn tại chỉ lấy chiến tranh làm lẽ sống dân tộc, tự hào một cách vĩ cuồng lấy áp bức đè nén cho một sự đầy đọa con người nhân danh con người.

Cái cụm từ “thú đau thương” xem ra thích hợp với tâm tình người Việt.

Người Homo, tổ tiên con người đã sống tranh đấu và vật lộn với thiên nhiên ở giai đoạn nguyên thủy. Và đó cũng trở thành quy luật chung của mọi loài trên trái đất này. Từ con người Homo-chỉ chung giống người tiền sử- nói chung đến con người Homo Sapiens được chúng ta gán cho danh hiệu: Người tinh khôn là một chặng đường dài.

Dài lắm, dài ngoài sức tưởng tượng của chúng ta. Tầm mắt của chúng ta không thể đo được chiều dài ấy.

Những điều mà chúng ta đang sống thực hữu ngày hôm nay, tưởng rằng đã có từ đời xửa, đời xưa, tưởng rằng đó là quy luật ngàn đời bất di dịch. Không. Không hẳn như thế. Đừng ngây thơ, đừng vọng tưởng. Cuộc sống được coi là văn minh, tiến bộ so với lịch sử loài người không biết có bằng một thời khắc ngủ một đêm thức dậy hay không?

Nhưng con người đã có mặt trên trái đất này nói chung đã có hàng vạn năm thì lịch sử con người Homo Sapiens mà chúng ta đang tự hào có khác gì một cái chớp mắt so với chiều dài lịch sử?

Đối với người Việt nói chung. Người ta sống bằng dư luận, vì dư luận, uốn nắn chiều chuộng theo dư luận. Cái tiếng để đời là thế, nhất là khi ta sống khép kín trong làng xóm. Nhưng cũng may là cái thời đó đã qua.

Người trước dư luận hiện nay là một trong những đề tài nóng bỏng của thế giới Người Việt. Nó nẩy sinh ra nhiều tệ đoan khôn lường. Đó là những ông bà đi buôn chuyện và người đi mua chuyện. Đi đâu cũng thấy những ông những bà nhân danh tự cao, tự đại vỗ ngực và sẵn sàng vào cuộc để phát ngôn bừa bãi, hoặc chửi bới hoặc chụp mũ người khác.

Con người trở thành chó sói giữa người với người.

Hay nói theo kiểu triết lý hiện sinh: Hỏa ngục chính là cái nhìn của kẻ khác.

Nhìn cây thấy rừng, phải rồi. Nhưng đôi khi phải vào rừng mới biết.

Con người và thiên nhiên

Ngày nay, nhiều người do không đọc, không tìm hiểu nên họ khó chấp nhận đời sống tổ tiên chúng ta chính là thời vạn năm, triệu năm sống “ăn lông ở lỗ”.

Chẳng hạn, một ví dụ rất thô thiển, nhưng cắt nghĩa được nhiều chuyện. Tại sao loại Sapiens biết ăn tủy xương mà các súc vật man dã như hổ báo, cáo chồn không ăn? Tại sao răng loài Sapiens thì nhỏ và dạ dày, ruột thi ngắn?

Câu trả lời chỉ bằng vào sự quan sát. Loài Sapiens vốn tạng nhỏ yếu không thể so sánh với sức mạnh như hổ báo nên khi những thú vật này chia nhau xẻ thịt thì loài Sapiens ngồi nhìn, thèm rỏ dãi ra và đợi khi bữa tiệc tàn.

Kẻ mạnh ăn no rồi bỏ đi, để lại ít xương vụn không nhai được.

Khi đó mới đến bữa tiệc tàn của loài Sapien. Sapiens mới chịu khó đi thu lượm được những miếng xương còn sót lại, dùng đá đập vỡ các xương để mút lấy cái tủy. Đã có đá để đập nên không cần phải có răng nanh nhọn, khỏe và sắc như các thú ăn thịt.

Lẽ đời là vậy. Mạnh tính theo mạnh, yếu tính theo yếu, ai có phần người nấy.

  


Có lửa để đun nấu nên tiến trình sinh hóa qua lửa không vất vả cho dạ dầy như các loài khác nên ăn ít hơn mà phẩm chất vẫn có đủ. Dùng lửa đun nấu làm thực phẩm dễ ăn hơn, dễ tiêu hóa hơn và không cần ăn nhiều.

Sự khác biệt hiển hiện nữa và rõ nét là con người đứng thẳng bằng hai chân. Các loài động vật khác đứng trên bốn chân.

Hai chân và bốn chân là mức độ đánh giá tiến trình tiến hóa từ loài vật lên loài người.

Với hai chân đi lại có điều tiện mà cũng có không thiếu điều bất tiện.

Về tốc độ thì hai chân không đi nhanh được bằng bốn chân. Hầu như với hai chân, loài Sapiens tỏ ra chậm nhất. Mà chậm là yếu là có thể dễ chết nhất. Vậy phải có cái gì đó bù trừ.



Trong tất cả các loài sinh vật trên trái đất thì đều tuân theo một cách hòa điệu theo luật bù trừ. Yếu cái này thì trời cho mạnh cái kia. Không có cái mạnh tuyệt đối theo nghĩa mạnh được yếu thua. Nếu như thế thì chẳng mấy chốc sinh vật muôn loài sẽ không có cơ hội tồn tại trên trái đất này. Tinh thần cá lơn nuốt cá bé là có thật. Nhưng cá lớn đẻ mỗi lần vài con, cá bé đẻ cả bọc cả ngàn con, mất con này có con khác thay thế. Càng to lớn, càng đẻ ít. Càng nhỏ càng sinh sản nhiều. Càng mạnh, to lớn thì “cái trí” càng nhỏ, sức chịu đựng về thời tiết, về ăn uống sinh tồn càng thua sút. Nói chi đến thay da đổi mầu hòa lẫn vào thiên nhiên. Nói chi đến bộ lông chịu đựng được thời tiết giá lạnh hay bộ da cứng. Nói chi đến khả năng phun nọc độc làm chết đối thủ. Nói chi đến sống ở sa mạc thì có túi đựng nước để sống mà không cần cung cấp nước.



Nghêu vòi voi

Nghêu (hào) vòi voi cân nặng 1kí 50 đến 2 kí, sống ở nước mặn, ăn các phôi sinh. Tên tiếng Anh là “geoduck” có gốc từ chữ “gʷídəq”, tiếng Lushootseed của bộ lạc da đỏ Nisqually ở Bắc Mỹ. Phần đầu vô nghĩa nhưng “əq” lại có nghĩa là sinh thực vật hay “đào sâu”, có lẽ cả hai đều có nghĩa bóng. (Xem thêm Geoduck.)

Con nghêu chẳng hiểu tại sao giống đến lạ cái phần sinh thực khí của đàn ông. Các bà vừa ăn vừa nhìn, vừa so sánh, vừa đỏ mặt. Nào phải ý muốn của vòi voi? Nhỏ như thế, ăn uống thô sơ đạm bạc như thế, sống chui rúc trong cát biển. Vậy mà có con sống cả 140-170 năm.

Khả năng miễn nhiễm nào, bản năng sinh tồn nào giúp con vòi vọi tồn tại lâu như thế? Nếu không có sự an bài, sắp xếp nào đó của một thẩm quyền ngoài con người?

Ôi biết bao điều kỳ diệu trong cuộc sống của muôn loài tuân theo cái luật bù trừ.

Nay nếu đem áp dụng vào con người thì cũng một điều kỳ diệu như thế! Và hơn thế!

Chỉ cần quan sát cái cơ thể con người về bề ngoài đã cho thấy sự an bài rất chi tiết và có mục đích giúp cho sự sống con người tránh được biết bao nguy hiểm của thiên nhiên. Xương chỗ nào cần cứng? Lớp da nào cần dầy? Tại sao cái mũi có sụn? Tại sao cần xương sống, lồng ngực. Nói chi đến khả năng miễn nhiễm ở bên trong có thể giúp chống lại bao nhiêu sự xâm nhập của các virus đủ loại..

Hóa cho nên, nhờ đó vật lớn, vật nhỏ đều có cái cơ may tồn tại được.

Sống còn là ý nghĩa lớn lao nhất, căn thiết nhất của muôn loài. Phải sống cái đã. Phải tồn tại cái đã, phải tựa vào nhau mà sống, mà tồn tại trước khi nói cái gì khác.

Vì thế, giữa đàn ông đàn bà phải “khác nhau” để tồn tại, để bù trừ cái có và cái không có.

Phụ nữ tranh đấu để bình đẳng, được như đàn ông là một khái niệm sai lạc ngay từ đầu bởi vì nó đi trái luật tự nhiên và đi trái với luật bù trừ. Chúng ta bị thu hút lẫn nhau bởi vì như một thú nhận cái thiếu cần được bù đắp và cái thừa cần được san sẻ.

Vì thế, tranh đấu để vẫn duy trì được cái khác, cái cá biệt, cái làm đàn bà là đàn bà, khác đàn ông là một tranh đấu có nghĩa lý.



Biện chứng thiếu thừa trước hết là nó thuộc bản chất con người, nói cao sang hơn là thuộc thân phận người, trước khi là một quy luật xã hội, một tranh đấu như đòi giải phóng cái âm hộ? Giải phóng con người trong cái toàn thể hay chỉ nhằm giải phóng một đòi hỏi nhất thể của một bộ phận cơ thể?

Tiếp theo, nói về tầm nhìn xa thì loài đứng trên hai chân có điểm lợi là loai Sapiens nhìn xa được vì chiều cao đứng thẳng. Nó không cần phải leo lên cây để nhìn. Nhưng mắt con chuồn chuồn chẳng những có thể nhìn xa mà còn nhìn được tứ phía. Mắt mèo, hổ báo không nhìn xa, nhưng lại có thể nhìn ban đêm như có đèn pha sáng quắc.

Nhưng rất tiếc, mũi lại không thính, cái tai lại không bắt được tiếng động từ xa vì thiếu cần ăng ten. Đúng là được cái nọ mất cái kia.

Nhưng có lẽ cái lợi nhất là với hai bàn tay của loài Homo Sapiens được tự do, nó có thể làm nhiều công việc đa dạng đòi khó khăn khéo léo mà loài bốn chân không làm được.

Đây là điều kỳ diệu trong muôn vàn điều kỳ diệu.

Cộng sản nói bàn tay làm nên tất cả. Cũng gần đúng đấy.

Đôi khi chỉ mất bàn tay, ta mới cảm nhận được điều kỳ diệu ấy.

Kinh nghiệm hiện sinh cho thấy cánh tay ma là có thật. Bệnh nhân nằm trên giường bệnh, nhìn bông hoa để trên bàn ngủ, muốn ngửi, muốn dơ tay với bông hoa để ngửi mà bất lực. Nhưng vẫn đưa khủy tay ra với như thể bàn tay vẫn còn, mặc dầu cánh tay đã bị cụt.

Đôi khi phải mất mát, ta mới cảm thức đầy đủ hiện sinh con người và sự kỳ diệu của nó.

Sự kỳ diệu của bàn tay thì ngay từ khi còn trẻ, người viết bài này đã có dịp suy nghiệm và viết về nó. Nay thấy không cần thiết phải nhắc lại cái kinh nghiệm đầu đời ấy nữa.

Bàn tay làm nên mọi sự. Từ chiến tranh chém giết đến nghệ thuật như âm nhạc, vẽ, v.v..

Đối với tổ tiên chúng ta, hai tay còn là biểu tượng của sức mạnh cần lao. Sức mạnh cơ bắp. Nhờ sức mạnh cơ bắp này, mà người đàn ông chế ngự người đàn bà buộc phải phục tùng mình.


Sức mạnh trung bình của nắm tay đàn ông, đàn bà và nữ lực sĩ

Nguồn: Leyk, D., et al. “Hand-grip strength of young men, women and highly trained female athletes.” European journal of applied physiology 99.4 (2007): 415-421.

Nhờ sức mạnh này, họ còn đảm đương những công việc nặng nhọc như cầy bừa, săn bắn, độc quyền nắm giữ việc sản xuất và làm chủ nhiều kẻ khác như phụ nữ. Chung quanh người đàn ông nay dần hình thành một nhóm người, trong đó một người có sức mạnh cơ bắp nhất làm chủ cả bầy đoàn.

Sau này, các chế độ nông nô, chế độ nô lệ thì đều lạm dụng sức mạnh của đôi bàn tay con người cho những mục đích riêng của họ.

Văn hóa cơ bắp đến một lúc, chỉ nhường bước khi có những người có khả năng tổ chức xã hội, biết dùng quyền năng để tập họp, phân phối lợi nhuận, v.v.. Ông ta thường là người lớn tuổi, trở thành “bố già”, tù trưởng mà ít khi phải xử dụng đến sức mạnh cơ bắp. Ông biết xử dụng những thanh niên cường tráng và trai trẻ hơn làm những công việc mà đáng lẽ ông phải làm.

How have changed women from the Stone Age to the present – Video

Vai trò của phụ nữ thời đồ đá không khác nhiều với nam giói: ngoài việc hái lượm, canh tác họ cũng săn những loài thú nhỏ.

Tương quan đàn ông đàn bà là một tương quan lệ thuộc mà rất giao hảo, không có cạnh tranh giữa những người phụ nữ. Ai cũng có phần và được phân chia một cách công bằng tạo một sự điều hợp của một trật tự được ấn định do bố già quyết định.

Trở lại tiếp nối câu truyện đôi bàn tay trong một xã hội được gọi là “văn minh”.

Đôi bàn tay trong một xã hội “văn minh” còn có thể là khởi đầu của các tương giao đôi lứa. Nhưng nó cũng là đề tài cho sự phản bội. Khi còn trẻ, người viết rất thích bài thơ của Nguyên Sa viết về 5 ngón tay. Đại khái, bàn tay 5 ngón, có ngón dài, ngón ngắn. Ngón tay đeo nhẫn. Ngón tay đếm tiền. Ngón tay tô son. Ngón tay thử coóc xê. Em còn ngón tay nào để giữ lấy tay anh?

Ngoài bàn tay, con người Sapiens còn vượt trội các loài khác nhờ khối lượng óc. Bộ não như một thứ “thinhkinhg department” ngày nay, con người dùng não bộ để bảo tồn sự sống sau đó chế ngự sức mạnh của thiên nhiên để bù trừ cho sự yếu kém về thể lý. Bộ não loài Sapiens lớn bao nhiêu thì nay có nhiều bằng chứng xác minh. Theo đó, bộ não trung bình của loài động vật có vú khoảng 60cm3.
Bộ não con người Sapiens hiện đại có dung lượng khoảng 1.200-1400cm3.

(Xem thêm Yuval Noah Harari, Ibid, trang 18)

Đó là cái giá của tư duy trong suốt nhiều năm lịch sử loài người. Và từ đó, từ bước nhảy vọt này sang bước nhảy vọt khác, loài người như đi hia bảy dậm. Từ khả năng biết trồng trọt đến nấu nướng, đến phân chia tài sản, đến việc bảo vệ những con cái và biết hưởng thụ từ những vật ấy như một chiến tích tự nhiên.. tất cả như một thứ trật tự hoàn hảo và ổn thỏa.

Cho nên, không lạ gì khi mà Darwin chủ trương thuyết tiến hóa cho rằng thủy tổ loài người chỉ là một loài động vật thì nhiều người cho đó là một xúc phạm đến con người thuần chủng!

Tuy nhiên, như đã nói đi nói lại nhiều lần, luật bù trừ là luật của sự sáng tạo, luật của Đấng ngoài con người, có cái lợi và có cái hại..

Cái hại nhiều ít tùy quan điểm. Các nhà Nhân chủng học đưa ra một cái hại của con người.

Con người Sapiens có một điều bất lợi về mặt giao cấu là “thiếu tự nhiên” như các loài động vật bốn chân. Chữ thiếu tự nhiên này hàm hồ lắm! Tuy nhiên, về mặt ngoại hình ở đây thiếu tự nhiên, con người Sapiens còn gặp rất nhiều những cản trở đủ loại làm cho cái việc ấy trở thành thiếu tự nhiên và không đạt đỉnh được.
Loài bốn chân có thể vừa đi vừa làm việc ấy, vẫn thản nhiên gặm cỏ như thể câu chuyện đang xảy ra với một động vật khác. Nhưng để bù trừ cho cái thiếu tự nhiên thì với bộ não tinh xảo đã khai thác biến cái bất lợi, cái yếu điểm thành lợi điểm.
Cho nên, những tụ điểm khoái lạc từ vùng đồi cỏ non, đến đỉnh vu sơn, điểm G đều là những sản phẩm nhiều khi chỉ được “chế tạo” bởi bộ não con người tô vẽ ra hơn là nằm trong tinh thần Sáng thế ký của Thượng Đế.

Khi Chúa dựng nên con người thì Ngài chỉ chú trọng tới giống Nam tính, một người đàn ông. Sau đó, Chúa mới nghĩ cần có thêm một giống nữ để cho giống Nam vui. Ngài bèn rút một cái sương sườn, thổi vào đó, tạo ra một người nữ.

Đó là tinh thần Adam-Eva.

Xem xét và học hỏi cho kỹ tinh thần ấy thì tránh được biết bao hệ lụy sản sinh ra từ chế độ “Một vợ-một chồng” của xã hội ngày hôm nay.

Hỏi bây giờ giống Nam có vui không? Nếu không vui thì có phải tại Chúa không?

Lại nữa, việc mang bầu với dáng đi thẳng, cũng là nhận xét của các nhà nhân chủng học, làm cho cái hông người phụ nữ hẹp làm khó cho đường sinh sản. Sinh đẻ trở thành nan giải, sẽ làm khó cho thai nhi trong bụng mẹ vì bị ép, bị cấn ở một tư thế lộn ngược mà theo thời gian cần có một sự vận hành khéo léo của thai nhi để tìm được lối ra.. Cái đầu thai nhi lại phải mềm, nhiều khi phải o ép mới ra khỏi bụng mẹ được. Nhiều thai nhi sinh ra đầu dẹp và cần một thời gian mới lại cân bằng.

Các loài khác bốn chân, thai nhi nằm thoải mái hơn. Con vật cái vận hành đời sống một cách bình thường. Đến khi đến lúc thai nhi ra ngoài như đã được chuẩn bị cho cuộc sống mới và nét ưu điểm thứ nhất không chối cãi được là thai nhi đã được vận hành và chuẩn bị một chu kỳ tự lập đến ngạc nhiên một cách nhanh chóng khác hẳn thai nhi loài Sapiens..

Cái 9 tháng 10 ngày chỉ là một thời gian chuẩn bị thiếu sót, bởi vì thai nhi con người còn cần ít lắm 10 lần cái 9 tháng mười ngày để có thể tạm thời tự lập.

Hỏi tại sao như thế thì tôi đành chịu, nhưng tôi có thể đổ thừa cho luật Bù-Trừ làm tạm đủ.

Hình thái con đực, con cái nơi con người cũng như con vật có nhiều điểm tương đồng. Trên căn bản, con đực các loài động vật có vú cũng có một cái chày và con cái có một cái lỗ. Cả hai vị trí của chúng đều ẩn khuất và chỉ thực lộ diện khi đúng thời.

Sự bù khuyết thiếu thừa, sự bổ xung là một điều kỳ diệu nữa do sự an bài của một Đấng mà ta tạm gọi là Thượng Đế là một điều kỳ diệu.

Người viết cần nói thêm và nói lai. Sự thiếu thừa này không chỉ ở ngoại hình mà phải nhìn cao hơn ở phái tính. Có những đức tính chỉ tìm thấy đầy đủ nơi đàn ông và ở chỗ khác nơi đàn bà. Sự thiếu ở chỗ này là để bù vào chỗ thừa ở chỗ khác là một điều kỳ diệu lắm chứ. Biện chứng thiếu thừa là biện chứng cho thấy con người phải tựa vào nhau mà sống.

Cái mạnh của đàn ông bù khuyết cho cái yếu của đàn bà. Ngay cái yếu của đàn bà cũng có thể là chỗ tựa cho đàn ông. Nếu hiểu như thế thì đấy là một kết hợp quá tốt đẹp. Vậy mà sao trên thực tế nó lại nảy sinh biết bao nhiêu điều dị biệt đưa đến đau khổ chia lìa?

Và những sinh hoạt thuộc phạm vi dục tính ở căn bản cũng rất nhiều điểm tương đồng giữa các loài. Động vật có vú thể hiện thế nào? Giản dị-mau chóng nhiều khi chớp nhoáng- “xong rồi thôi”. Con cái thường được coi là tài sản chung là vật không hẳn là độc quyền thì con người “đáng nhẽ” cũng có vậy.

[“Trong số khoảng 5.000 loài động vật có vú, chỉ có 3 đến 5 phần trăm được biết là sống suốt đời với một con khác giống. Nhóm này gồm hải ly, rái cá, chó sói, một số dơi và cáo và một vài động vật có móng.” — Ker Than, “Wild Sex: Where Monogamy is Rare”, Live Science, November 20, 2006]

Trước khi có quần áo che thân thì không có khái niệm “xấu hổ”. Vú ngực, vùng kín cũng chỉ là một bộ phận trong cái toàn thể con người không cần che đậy.

Che đậy là có ý niệm xấu, có tà ý. Theo khái niệm của tinh thần người sống hoang dã.

Nếu không cần che đậy thì việc giao cấu hầu như tự nhiên, Như ăn, như ngủ. Có nhiều hình ảnh, tài liệu trong các xã hội thô sơ, ở đó đàn ông, đàn bà làm việc giao cấu trong khi con cái bò chung quanh vui đùa.

Xin xem thêm tác giả Claude Levy-Strauss trong cuốn Triístes Tropiques, năm 1957 để rõ hơn. Claude Lévy-Straus một nhà nhân chủng học thuộc trường phái cấu trúc đã có dịp sống và quan sát các thổ dân sơ khai nhất tại vùng Amazone. Ông cũng là tác giả gây cho tôi ấn tượng khó quên khi tôi còn là sinh viên đại học.



Đối với tác giả, ông như một khám phá và mở ra một chân trời mới về Nhân chủng học khác với những lý thuyết nhàm chán của một E. Durkheim và một số các nhà xã hội học Pháp thời thập niên 1960.

Nó giúp những người trẻ như tác giả lúc bấy giờ có một cái nhìn khai phóng, rộng lượng và cả bao dung cũng như dẹp những rào cản không còn cần thiết nữa..Không còn “vùng cấm” hay những cấm kỵ (tabou) mà tùy thuộc vào nhu cầu của bày đoàn, không phải cá nhân.

Những khảo cứu của Claude Lévy Strauss tại Ba Tây, nơi mà người theo đạo Thiên Chúa giáo được coi là đông đảo nhất thế giới với một sự thực hành tôn giáo có phần khác với những mẫu mực tôn giáo các nơi khác.

Sao Paulo và Rio de Jainero cũng như những thành phố lớn khác của họ có một lối sống đạo điển hình cho một lối sống đạo phóng khoáng và cởi mở của thời đại hôm nay.

Trong khi đó, ở những vùng xa xôi, hẻo lánh, vẫn còn vết tích của một nếp sống đạo cổ truyền của 100-200 năm trước.

Điều đặc biệt vẫn là sức sống mãnh liệt bày tỏ công khai ở những nơi ấy pha trộn nhiều nguồn ảnh hưởng từ truyền thống Ấn độ, Phi Châu đến Âu Châu.

5 bộ lạc bí ẩn không có liên lạc với thế giới bên ngoài :

Nếu được chọn lựa, người viết vẫn thích một cuộc sống sinh động, đầy nhân bản con người thay vì nếp sống cằn cỗi, khô cằn mà từ tiếng nhạc đến văn chương thơ phú, chỉ là những tiếng thở dài của ngàn năm lịch sử lấy bạo lực chiến tranh làm lẽ sống còn.

Yuval Noah Harari cho thấy tính cách chung của con người Sapiens là tính cách “bầy đàn”. Cho nên sự riêng tư và cô đơn tách lẻ là rất hiếm nếu không nói là một khái niệm xa lạ.

Và họ hàng lớn của chúng ta không ai khác bao gồm tinh tinh tinh, khỉ độc và đười ươi.

Ngày nay chúng ta cho rằng cốt lõi như hạt nhân của đời sống gia đình là một vợ một chồng mà biểu tượng là Adam và Eva. Adam và Eva mở đầu cho giai doạn tách biệt ra khỏi bầy đàn, tách biệt ra khỏi giai đoạn hái lượm – như đoạn bình minh của nhân loại — bước vào thời trồng trọt và chăn nuôi với lkasi niệm tư hữu, tích lũy và kế thừa của cải.

Adam và Eve là nguồn gốc của khái niệm biết “xấu hổ”, nguồn gốc của khái niệm tội lỗi với tội tổ tông. Nếu hiểu vườn địa đàng theo một nghĩa nguyên ủy thì đó là một nơi sống hồn nhiên tự tại, không có khái niệm biết lành, biết dữ thì phải chăng tổ tiên loài người đã từng sống trong một thế giới được gọi là địa đàng?

Tuy nhiên, đứng về mặt lịch sử con người thì vài ngàn năm bước vào giai đọan trồng trọt và chăn nuôi của chúng ta vẫn chỉ là một cái chớp mắt so với hàng vài chục ngàn năm đến triệu năm tổ tiên chúng ta ở giai đoạn săn bắn và hái lượm.

Kể từ đây, mọi chuyện đổi khác khi có tích lũy và khái niệm đực-cái trong giao hợp không còn ý nghĩa nguyên thủy của nó nữa. Có sự ức chế, trên dưới, có sự tich lũy tài sản sẽ phá hủy bình đẳng giới tính giữa cùng phái và nhất là khác phái. Sự ưu đãi dành cho giống đực hay một con đực do làm chủ tài sản đưa đến chỗ độc quyền một số con cái vây chung quanh một con đực và dần được hợp thức hoá qua các thể chế bộ lạc.

Chế độ đa thê thành hình vì những áp lực kinh tế, miếng ăn và sự sống còn mà sinh ra nó.

Nhưng, ngày nay, người ta quên rằng đã có một loại thổ dân Bari ở Châu Mỹ nơi đó người ta tin rằng có một tập tục của “người làm cha tập thể”. Cụ thể là một đứa trẻ không được sinh ra từ tinh trùng của một nam giới duy nhất mà từ sự tích tụ của nhiều tinh trùng trong tử cung của nữ giới.

Theo Yuval Noah Harari:

“Một người mẹ tốt sẽ quan hệ tình dục cùng thời điểm với nhiều nam giới khác nhau, đặc biệt là khi cô ta đang mang thai, do đó con của cô sẽ được thừa hưởng những phẩm chất (và cả kỹ năng chăm sóc con cái) không chỉ đơn thuần từ các thợ săn tốt nhất mà từ người kể chuyện hay nhất, những chiến binh mạnh nhất và những người tình chu đáo nhất. Nếu điều này nghe có vẻ ngớ ngẩn, hãy nhớ rằng trước khi các nghiên cứu hiện đại về phôi thai phát triển, người ta không có bằng chứng chắc chắn rằng các em bé luôn được sinh ra bởi một người cha duy nhất hơn là bởi nhiều người.”

(Yuval Noah Harari, bản dịch Sapiens Lược sử loài người. Nguyễn Thủy Chung dịch. Võ Minh Tuấn hiệu đính. Nxb Trí thức, trang 58)

Ở một góc nhìn xã hội, thời cổ đại, môt phụ nữ có thể giao cấu với nhiều người Nam mà không bị liệt vào một khung đạo đức nào. Điều ấy có khác chi — nếu không nói nó vượt lên trên về mặt nhân sinh quan xã hội thời hiện nay — với định chế hạt nhân một vợ một chồng cần phải ly dị hoặc chọn đời sống độc thân để có tự do luyến ái với bất cứ ai? Khái niệm “cùng thời điểm” nay đổi ra khái niệm “một lượt một người”. Lúc nào cũng độc thân mà chiếc gối bên trái thường không bao giờ bị bỏ trống!

Và với nhiều hình thái, phương pháp mà trước đây người cổ sơ có thể không biết đến. Chẳng hạn hình thái thủ dâm được coi là thời thượng của đời sống tình dục thời nay đạt tới đỉnh điểm của khoái lạc mà không cần thiết có cuộc giao cấu tự nhiên nào.

Cho nên, cá nhân tôi vẫn có một xác tín rằng cuộc sống tự nhiên của tổ tiên chúng ta trong mọi sinh hoạt, trong đó có sinh hoạt tính dục vẫn ở một tầm đáng nể.

Người viết không dám kết luận về hơn kém. Vì không có đủ thẩm quyền chọn lựa, ngay cả quyền làm lại. Nhưng vẫn cảm thấy có một cái gì không ổn trong chế độ hạt nhân một vợ một chồng. Nó chồng chất nhiều tai hại khôn lường được.

Người viết cũng vẫn tin rằng có một pensée sauvage chẳng thua kém gì cái cái tư tưởng của thế giới văn minh tiến bộ.

Phản bác là chối bỏ một sự thật. Nếu không phản bác là giả hình, giả đạo đức.

Thiển nghĩ rằng nếu các phụ nữ Việt- hẳn là có sự khác biệt với phụ nữ Mỹ — nếu đọc đượcnhững tài liệu trích dẫn trong bài này — thì họ sẽ “bớt hung hăng con bọ xít”, bớt “ta đây”, bớt “con nhà lành” và biết tự trọng bằng cách im lặng.

Nhưng chỉ trích dẫn tài liệu thôi cũng chưa đủ. mà phải bằng chính cuộc sống hiện hữu của con người, bằng phân tâm học, bằng tâm lý học. Chúng ta sẽ hiểu rằng, con người ai ai – trai cũng như gái, giàu hay nghèo, sang hay hèn, thành công hay thất bại – trong thế gian thường tình cũng luôn luôn tìm cách biện hộ cái lý lẽ ở đời của mỗi người. La raison d’être là cứu cánh cuộc đời của mỗi người để ta tự soi gương và lúc nào cũng thấy ta toàn thiện.

Thiện ý bao giờ cũng trang bị đầy đủ. Thiện chí bao giờ cũng có thừa.

Chinh vì cái có thừa đó mà trong triết học tôn giáo mới có một nhận xét mỉa mai như sau: Ở dưới Hỏa ngục thì đầy những kẻ có thiện chí.



Freud dã có tham vọng khám phá cái chiều sâu của tâm lý con người và tin rằng cuộc sống tâm linh con người chủ yếu phải tìm về những chiều sâu ẩn kín mà ông gọi là các tầng tiềm thức và vô thức.

Từ Freud đến Phúc trình của Kinsey và sau cùng Phúc trình của Hite

Khi còn trẻ, người viết cũng nghĩ rằng đó là những công trinh lớn của khoa học về con người. Nó đánh dấu một bước tiến vĩ đại của cuộc sống tâm lý. Giải mã nhiều ẩn số. Đi tìm những dấu ẩn là một thích thú như một khám phá.

Thế nhưng, khoảng năm 1960, người viết có cơ hội thực chứng đọc được tài liệu của bác sĩ Alfred Kinsey nhan đề: Rapport de Kinsey (Linsey Reports) bàn về những thái độ ứng xử của con người về vấn đề tình dục. Ông viết hai cuốn. Cuốn đầu: Les rapports 1948 pour l’homme. Cuốn hai: Les rapports 1953 pour femmes. (Sexual Behavior in the Human Male (1948) và Sexual Behavior in the Human Female (1953)

Đối với giới sinh viên thời ấy, được tiếp cận các tài liệu này là một may mắn lớn.

Trong tài liệu này của Kinsey, khác hẳn các tài liệu của Âu Tây có tính cách thuần lý thuyết, báo cáo của Kinsey dựa vào những bảng thống kê, bằng những cuộc phỏng vấn. Tác giả tiết lộ cho thấy, như thể bóc trần, đời sống tình dục của con người, nhất là đời sống trong quan hệ lứa đôi. Chẳng hạn đề cập đến các vấn đề thủ dâm, ngoại tình, đồng tình luyến ái, lạm dụng trẻ con, v.v.. Tác giả đưa ra những bằng chứng mà không phê phán tốt xấu cho thấy tất cả sự thực ấy nó như thế nào.

Đây được coi như một xi căng đan lớn trong phạm vi tính dục làm đảo lộn nhiều trật tự luân lý, tôn giáo và xã hội.

Gần 30 chục năm sau, thêm một phúc trình của Shere Hite nhan đề: Le rapport Hite (Phúc trình Hite) 1976. Trong đó tác giả làm một điều tra ở bên Mỹ với 3000 phụ nữ tuổi từ 14 đến 78, với 10.000 câu hỏi và các câu trả lời cho phép sự bộc lộ đời sống tình dục thầm kín nhất của họ. Đặc biệt đề cập đến vấn đề thủ dâm.

Tác giả đã gửi những câu hỏi này đi trên toàn nước Mỹ vào năm 1972 cho nhiều thành phần phụ nữ khác biệt cũng như quan điểm khác biệt. Cuối cùng thì tác giả đã nhận được 3019 câu trả lời từ nhiều nguồn khác nhau.

Mục đich là để tìm hiểu xem người phụ nữ nghĩ gì, đã làm gì về đời sống tính dục của chính họ. Sự tiết lộ ở đây qua 3000 phụ nữ này có tính cách thuyết phục mà không thể có lời biện bạch và phản bác được.

Xin trích dẫn một đoạn ngắn:

“Tôi phải thú nhận rằng tôi được biết gần đây thôi rằng các thiếu nữ (Thật là ghê tởm) đã thường thủ dâm. Tôi cũng đã làm thường xuyên như vậy khi tôi còn nhỏ (chừng 11 tuổi đến 14 tuổi). Và tôi đã cầu nguyện để có đủ sức mạnh để đùng vấp phạm nữa. Điều gì đã làm tôi phạm tội như thế? Nhưng thường thì tôi không cưỡng lại được và trong khi thủ dâm, tôi đã cầu nguyện để Thiên Chúa đừng nổi cơn thịnh nộ giáng xuống trên đầu tôi. Tôi đã tin chắc ràng tôi là một đứa phạm tội nặng. (…) Càng ngày tôi càng ham muốn thủ dâm.. cụ thể bằng thân xác và cả vấn đề tâm lý nữa. Về thể xác thì tương đối dễ dàng, nhanh chóng và thỏa mãn. Về tâm lý, đôi khi tôi thấy cảm thấy lẻ loi và đơn độc. Nhưng rồi thì tôi quen thủ dâm hầu như mỗi buổi chiều trước khi đi ngủ. Tôi cảm thấy tôi được thỏa mãn đạt đỉnh ít lắm là một lần. Tôi cảm thấy tôi được hoàn toàn thỏa mãn đầy đủ với 5, 6 lần một cách sôi động.”

(Shere Hite. Le rapport Hite, 1976, trang 58-59)


Và chúng ta thử nghĩ xem với hơn 3000 phụ nữ đã trả lời đủ cách, đủ kiểu, đủ tâm trạng khác nhau, đủ thiên hình vạn trạng..Không một góc cạnh nào, dù là góc tối nhất từng được dấu kín và che đậy của đời sống tình dục mà không được phơi bày ra.

Họ đã nói hết, nói đủ, không che đậy. Một phụ nữ đã phát biểu:

“Để lên đỉnh đạt khoái cảm cực điểm. Tôi phải tập để biết yêu mình và thành thực hơn nữa. Tôi phải hoàn toàn yêu thân xác tôi, yêu tâm hồn tôi, tinh thần tôi… Tôi cũng phải có được mối liên hệ nóng bỏng và tham dự một cách hòa điệu bằng vào nhiều kinh nghiệm với người đối ngẫu của tôi.”

(Shere Hite, Ibid, trang 220)

Phản bác họ là chối bỏ một sự thật. Nếu không nói phản bác là giả hình, giả đạo đức.

Theo thiển ý, việc thỏa mãn khoái lạc xác thịt phải chăng là trung tâm điểm của đời sông tình dục giữa các cặp trai gái?

Sự hiểu biết của cá nhân về giới tính cũng như vấn đề tính dục ở tuổi thanh thiếu niên là hạn hẹp thô thiển. Người viết như nằm trong một cái bình khép kín. Và cái gì đi ra ngoài khuôn khổ giáo luật là không trong sạch.

Khái niệm không trong sạch là một khái niệm biện biệt phổ quát và tổng hợp máy móc. Nó ức chế mọi sinh hoạt tình dục đôi khi là bình thường và do học thuyết Freud đứng đằng sau hỗ trợ giải mã và phân tách chi li từng cử chỉ, thái độ.

Nó có cao vọng vạch trần hoặc đưa ra ánh sáng những hé lộ thầm kín, dục vọng được che đậy ở một bề mặt nổi. Vấn đề cuối cùng không là đi tìm cái hé lộ, cái phơi ra, cái trôi nổi công khai mà là những động lực thầm kin tiềm ẩn được gọi là tiềm thức, nhất là vô thức.

Thế giới thời sinh viên là một sự đi tìm và lý giải những uẩn khúc quay xung quanh trục:Ý thức-tiềm thức và vô thức.

Giáo dục tôn giáo còn có thể đi một bước tệ hại hơn nữa khi nó đề cao “nhị nguyên tính” nơi con người bao gồm tinh thần và thân xác. Tinh thần và thể xác là hai thực thể đối lập, mâu thuẫn và tranh đấu miên tục. Một đằng muốn kéo xuống, một đằng muốn đi lên. Một bên muốn thỏa mãn, một bên muốn cấm đoán. Sự tranh đấu giữa đôi bên trở thành mối căng thẳng đôi khi kéo dài trong suốt đời.

Người viết có dịp được đọc Hồi ký của một bà sơ ngay từ khi gia nhập tu hội, sơ đã có thói quen thủ dâm và trong suốt cuộc đời tu trì cho đến năm 87 tuổi, bà sơ mang mặc cảm tội lỗi và đã để lại nhật ký viết về những năm tháng ấy.

Sự cấm đoán ấy về mặt tự nhiên và mặt xã hội có hợp tình, hợp lý không?

Tệ hại hơn nữa, nó hạ thấp giá trị thân xác và coi là nguồn cội của mọi sự sa đọa, sự ham muốn thấp hèn của con người.

Nó nhồi nhét thêm nhiều khái niệm có tính cách lý thuyết và không tưởng. Nhất là tính bảo thủ, tính răn đe và cao rao những cấm kỵ.

Ki-tô giáo coi thân xác và tinh thần là hai thực thể đối lập nằm trong cùng một con người. Khuynh hướng chung là hạ thấp thân xác và đề cao tinh thần. Thân xác là nguồn cơn của sự sa đọa, đi xuống.

Mọi tham vọng cũng như dục vọng đều bắt đầu từ thân xác mà ra. Ham ăn, ham uống, ham khoái lạc, ham hưởng thụ là do những đòi hỏi của thân xác. Cho nên để nâng tâm hồn lên thì phải hạ thân xác xuống. Phải chay tịnh, hãm mình, đánh tội.

Phải cùng nhau nhìn nhận lỗi lầm quá khứ về cách nhìn nhân tiêu cực về con người, về đời sống tính dục. Dĩ nhiên, cách nhìn hiện nay thì thông thoáng hơn nhiều và không còn gò ép như xưa nữa.

Ngược lại còn đề cao những khái niệm về trinh tiết, sự khiết tịnh, sự trong sạch tâm hồn.

Bên cạnh những răn đe của tôn giáo, con người VN còn bị bao bọc bằng một cái vỏ cứng như một thứ mai rùa là triết lý khổng giáo. Triết lý này tệ hại nhất là ở chỗ nó đè cao và xiển dương nam tính, nhằm phục vụ giới tính nam tính hơn là phục vụ con người xã hội.

Tất cả những khuôn vàng thước ngọc như Tứ Đức Tam tòng đều là những khẩu hiệu mang tính lừa phỉnh, nhằm áp đặt trên giới phụ nữ. Cái gì cũng là rào cản ngăn cấm phụ nữ và là cửa mở toang cho nam giới. Thân phận người phụ nữ trong xã hội Á Châu như Việt Nam, Trung Quốc thật sự đã bị đè nén, bóp nghẹt từ lúc còn con gái, đến lúc lấy chồng và rồi cả lúc làm mẹ.

Hiện tượng phá rào luân lý và đạo đức của nhà văn Francoise Sagan


Francois Sagan ở Mỹ với Truman Capote và Ava Gardner trong chiếc xe đua của Aston Martin

Xã hội Âu Tây tưởng là phóng khoáng và cởi mở hơn các xã hội còn cổ hủ và khép kín như Á Châu. Phụ nữ Âu Châu được coi như những thành phần tiến bộ nhất về nhiều mặt, nhất là về mặt tình dục.

Vậy mà không ai ngờ nó cũng có những giai đoạn phá rào và đột phá. Chẳng những thế nó còn mở đường cho những phong trào Giải phóng phụ nữ trên toàn thế giới!

Người viết còn nhớ giới trẻ Saigon chỉ biết đến F. Sagan qua lời giới thiệu của Nguyễn Nam Châu trong cuốn sách: Những nhà văn hóa mới. Kể từ đó, học sinh nhất là sinh viên mới có cơ hội lần lần tìm đọc nhà văn này.

Sagan là một hiện tượng phá rào về mọi giá trị đạo đức, tôn giáo, trong đó có sự phóng túng về tình dục, sống bất cần mà vẫn làm ra vẻ chán chường, mệt mỏi.

Một cuộc sống chẳng những phá sản cả trong văn chương, triết lý lẫn cuộc sống đời thường.

Giới trẻ ham tốc độ, rượu, những hộp đêm, thỏa mãn tình dục, cờ bạc, trụy lạc, làm những truyện điên khùng một cách thản nhiên.

Một lối mô tả vô luân, nhưng lại hấp dẫn đến độ người đọc có thể quên và chấp nhận.

Trên danh nghĩa, người ta lo giữ trọn đạo nghĩa. Nhưng trên thực tế, sách truyện của Sagan là một thứ tiểu thuyết gây xi căng đan. Đặc biệt là sự nổi loạn.

Nếu nó không mang tính nổi loạn, có thể sẽ không ai tìm đọc truyện của Francois Sagan.

Ở chỗ này, người ta cũng có thể nhận ra là Sagan còn muốn lột trần tính cách giả dối của xă hội người lớn. Như một tố cáo gián tiếp, như một phủ nhận bằng cách sống khác, sống ngược. Sống ngược với xã hội người lớn, với trật tự, với khuôn phép tổ chức mà người ta gọi là phá rào. Trong đó, hầu như phủ nhận không bằng chứng về cuộc sống hôn nhân!


Tấm quảng cáo phiem Bonjour Tristesse

Trong truyện đã thế, cuộc sống của Sagan cũng là một thứ “phơi ớt tông” mỗi ngày. Lái xe đua của Aston Martin, mui trần, hết tốc độ, đi chân đất. Rồi ngày nào cũng là ngày hội với ăn uống, rượu Whisky, làm tình lúc nào muốn làm và thức trắng đêm.

Cho đến lúc này, người viết tự hỏi, cuộc sống hôn nhân, gia đình của người lớn đã lộ cho thấy những kẽ hở, những giả dối, che đậy như thế nào để giới trẻ nổi loạn?

Nó phải có cái gì chứ? Nó phải có những bất cập nơi người bố, người mẹ, những ông thày và nói chung xã hội người lớn? Đâu là những bất cập? Cho đến nay thì cũng không có một ai muốn để tâm tìm hiểu

Nhưng chúng ta cũng đừng nên quên rằng, trước đó 10 năm, một xi căng đan chưa ráo mực về nữ tài tử điện ảnh Brigit Bardot trong một cuốn phim gây xôn xao dư luận: Et Dieu créa la femme. Đây phải chăng là một tiền đề báo động sau thế chiến?


Brigitte Bardot và Jean-Louis Trintignant trong ‘And God created Woman’ của Roger Vadim, 1956

Cuộc thế chiến thứ hai tại Pháp đã để lại nhiều mất mát, nhiều xáo trộn- ngoài nỗi nhục bị thua trận và chết chóc- nhiều vỡ đổ trong phạm vi luân lý, đạo đức, tôn giáo thời kỳ chiếm đóng của Đức dưới chính phủ bù nhìn.

Xi căng đan tiếp nối xi căng đan.

Người ta thật khó có thể chấp nhận câu chuyện một người đàn ông, một người cha trong gia đình có nhân tình lại có thể sống chung dưới một mái nhà với con gái để rồi sau đó gây ra một thảm kịch. Đề tài trong chuyện là chuyện không thành chuyện. Câu chuyện chỉ muốn nói là có một cuộc sống dễ dãi, buông thả, bất cần, muốn ra sao thì ra.

Nó pha trộn đủ thứ: nhục tính, làm tình một cách thản nhiên đén vô luân, ngây thơ đến vô số tội, thản nhiên mà còn tàn độc, nhàn tản đến không biết làm gì đến vô trách nhiệm.

Ta gọi đó là một nếp sống phi luân (amoral). Phi luân không phải theo nghĩa nó không có đạo đức luân lý, mà ở chỗ nó không đặt, hoặc không đếm xỉa đến vấn đề luân lý nữa.

(Xem Nguyễn Văn Lục, “Francoise Sagan: Bonjour tristesse” ( Con người, cuộc đời và tác phẩm)

Nếu bỏ ra một bên cuộc sống và con người của F. Sagan, phải chăng cái rường cột của quy chế một vợ-một chồng tự ngàn năm, tự nó đã bị mối mọt đến hết thuốc chữa?

Phải chăng cần nghĩ đến một thay đổi, một quy chế mới cho cuộc sống hôn nhân? Không ai có can đảm muốn đặt thành vấn đề..

Sau này ở miền Nam, có những thành phần con nhà mà bố mẹ sống nhờ chiến tranh thuộc thành phần “bên lề cuộc chiến” mà thói quen là bắt chước theo đuôi. Tôi gọi bọn họ là những đứa con hoang vô thừa nhận của J.P. Sartre và Sagan của thời kỳ tan rã.

Đó là những thành phần trẻ, con nhà giàu, trốn lính, trình độ không mấy người qua khỏi trung học, không nghề nghiệp sống nhờ cái gấu quần của bố mẹ. Phần lớn học trường Tây. Và đây cũng là cái mốt thiếu tự trọng.

Nhưng họ lại chỉ học đòi được cái vẻ bề ngoài của chủ nghĩa Hiện sinh -một thứ chủ nghĩa hiện sinh hè phố- không phải chủ nghĩa hiện sinh bằng lý thuyết sách vở; họ học cái bèo bọt ăn chơi, chơi bảnh, chơi điệu, sống phóng túng trong quan hệ nam nữ, lấy mốt sống Hippy, sống bừa bãi, sống bất cần, sống không có ngày mai như thể lẽ sống bất kể thời cuộc, bất kể những hy sinh của những người lính ngoài mặt trận.

Họ chỉ là thành phần ít ỏi, sống tập trung ở Saigon, trong một vài phòng trà, vũ trường. ọ hát nhái lại những bài nhạc trẻ kích dật của ngoại quốc vốn không có một chút liên hệ đến tình tự dân tộc đất nước trong thời khói lửa. Nó không phải du ca, tâm ca hay phản chiến. Nó lửng lơ con cá vàng, thản nhiên và vô ý thức trước hiện tình đất nước. Nó là cái gì? Thưa nó là lai căng. Nó là lố lăng. Nó là bắt chước. Thời nào cũng vậy. Thời nào cũng có.

Trong bài viết “20 năm giới trẻ miền Nam”, tôi gọi họ họ là những thành phần “Đứng bên lề cuộc chiến”. Họ không nhập cuộc, họ đứng ngoài.

Những thiếu nữ trẻ váy ngắn mà mỗi một phân tấc ngắn thêm có thể đo đếm được chuẩn mực đạo đức của họ. Càng ngắn càng đúng điệu, càng hợp thời trang.

Thanh niên thì ăn mặc lố lăng, áo chim cò, đầu tóc rối bù, đeo kính râm tổ trảng, đứng dạng chân, khạng tay khuyềnh khoàng. Tất cả là một sự lố bịch.


Người viết chỉ muốn nói là đã có một thời như thế mà những người sinh viên trẻ, mặc dù được đào tạo trong môi trường triết học hiện sinh mà chẳng có gì gọi là hiện sinh cả.

Trái lại có một nếp sống nghèo nàn, thanh bạch, dửng dưng với chuyện ăn chơi, chỉ biết lo học, nhưng lại đã biết ưu tư về hiện tình đất nước và chẳng có một dấu vết gì trên quần áo, đầu tóc là Hiện sinh cả!

Chỉ có thiếu lòng tự trọng mới còn huyêng hoang về giai đoạn ấy.

Giới sinh viên miền Nam thập niên 1960 là đa số con nhà bình dân mà một phần nhỏ dại diện là thành phần du ca, thành phần sinh viên Lên Đường thay vì xuống đường biểu tình rối loạn.

Tình dục như một vấn đề cấm kỵ

Nhiều người vẫn tin rằng tình dục, nói chung, là một điều xấu, điều chẳng đặng đừng. Điều mà người ta có thể làm mà không thể nói công khai. Điều ấy nhiều phần có thể phát xuất từ một số cấm kỵ từ đạo giáo? Tôi vẫn tự hỏi, tại sao tình dục là một điều cấm kỵ mà trên thực tế nó là một điều mà con người vi phạm nặng nề nhất trên hết mọi điều?

Nhiều tôn giáo coi việc tu đức đi song hành với việc cấm đoán về tình dục.

Nhưng nếu ta chịu khó dọc lại lịch sử giáo hội công giáo chẳn hạn, người ta quên rằng cho đến thế kỷ 12, dưới thời Giáo Hoàng Gregory mới có quyết dịnh là tất cả các tu sĩ của Giáo Hội phải là người sống độc thân.

Việc sống độc thân một phần dựa trên quan điểm thần học (cho rằng Bí tích Thánh Thể không thể do một người mà bàn tay đã vấy tinh dịch, không tinh khiết nữa.) Phần nữa là về mặt kinh tế, giáo hôi e ngại rằng, nếu giáo sĩ không độc thân thì con cái của giới tăng sĩ có thể có những tranh chấp quyền lợi về tài sản của cha họ.

Giáo sư Paloma Moral de Calatrava, giáo sư sử học, đại học Murcia cũng viết:

“Chúng ta đã sai lầm khi tin rằng tất cả liên quan đến tình dục bị coi là xấu xa vào thời điểm đó. Tuy nhiên, thời đó bác sĩ thường xuyên biên toa “làm tình” như một toa “thuốc bổ” để giữ cho đời sống hôn nhân lành mạnh và thậm chí còn có một số khoan nhượng đối với các thành viên của giới tăng sĩ có quan hệ tình dục.”



Vì thế, trong bài viết vừa nêu trên, người ta sẽ không lấy làm lạ là một số hình điêu khắc khỏa thân còn được giữ lại trong một số ngôi Thánh đường ở phía Bắc Tây Ban Nha các đây cả 1000 năm. Chẳng hạn, bức tượng một người phụ nữ phô trương bộ phận sinh dục của mình trên một gờ tường tại nhà thờ Collegiate của San Pedro de Cervation (Cantabria) hay một bức tượng khác của một người đàn ông đang khoe cái phallus khổng lồ của mình hướng về phía người xem.

Những phần trích dẫn trên dù sao cũng vẫn chưa là tiếng nói chính thức có thẩm quyền.

Có lẽ ở đây chúng ta nên nhường cho tiếng nói có thẩm quyền của Giáo hội công giáo như trường hợp nhà thần học Hans Kung, một người bạn thân thiết của Giáo Hoàng Bénédictô thư 16 từ thời Cộng Đồng Vatican II.

Trong một cuốn sách quan trọng nhan đề “Peut-on encore sauver l’Église?” ( Người ta còn có thể cứu vãn được Giáo hội hay không).

Nhà thần học cho rằng Giáo Hội Công giáo hiện nay đang trải qua thời kỳ khủng hoảng cơ chế (Crise du système) trong đó có vấn đề lạm dụng tình dục nơi một số linh mục và giám mục. Sự lạm dụng ở đây còn là một vi phạm hình sự vì đụng đến các trẻ con vị thành niên.

Sau đó, giáo sư thần học Hans Kung đã can đảm đề nghị cải cách là nên cho phép các linh mục và giám mục lập gia đình trong một nhan đề: Autoriser le mariage des prêtres et des évéques. (cho phép các linh mục và giám mục được quyền lấy vợ).

(Xem Hans Kung, Ibid, trang 217)

Còn nếu cứ duy trì như tình trạng hiện nay thì tội phạm vẫn ngấm ngầm xảy ra và Giáo hội cứ phải che đầu này, dấu đầu kia. Cuối cùng chỉ là một thứ Giáo Hội bề ngoài. (Une Église de façade). Các Giám mục giữ lời tuyên hứa tùng phục Giáo Hoàng vô điều kiện Và sự im lặng ở đây là vàng.

Nếu xem xét lại lịch sử Giáo Hội trong những ngày đầu thì Chúa và thánh Phao lồ là hai người duy nhất ở bậc độc thân trong việc phụng sự nhân loại. Các môn đệ khác còn lại thì đều đã có gia đình.

Nhựng về vấn đề độc thân, có thể Chúa để cho mọi người có quyền tự do lựa chọn.

Vì thế, Thánh Phê rô và tất cả các Thánh tông đồ còn lại đều có gia đình. Cho nên việc giữ mình trong tình trạng độc thân là một ơn gọi hoàn toàn tự nguyện mà không phải là một điều bắt buộc.


Erotische Szene

Cũng xét theo lịch sử Giáo Hội thì chỉ có một lần duy nhất Chúa đề cập đến vấn đề độc thân bằng câu nói (người sau ghi lại), “Qui peut comprendre, qu’il comprenne.” Ai có thể hiểu thế nào thì hiểu. Nhung điều đó không có nghĩa là: Họ bắt buộc phải hiểu.

Và người ta còn có bằng cớ rõ ràng là Chúa đã viếng thăm nhà Phê rô và đã chữa lành cho bà má vợ của ông (Theo Mathieu, 8,14).

Việc đến thăm nhà má vợ của ông Phê rô là một cách gián tiếp Chúa nhìn nhận tính hợp pháp của việc có gia đình của các môn đệ của Ngài.

Và trong nhiều thế kỷ tiếp theo, việc hôn nhân của các giám mục và linh mục đã được để tùy tiện.Và nếu ngày nay, việc giữ độc thân đã trở thành quy luật nơi các Giáo Hội Đông Phương, trong Giáo hội thống nhất ở Rome cũng như trong toàn thể Giáo Hội Chính Thống giáo.. thì Luật giữ độc thân của Giáo hội La Mã đã phản ngược lại Phúc Âm cũng như truyền thống công giáo cổ xưa.

Và nó còn phản lại luật quyền của con người trù liệu rằng mỗi người đều có quyền lập gia đình.

Nhưng điều quan trọng nhất là Chúa không ngăn cấm, tại sao Giáo hội ngăn cấm?

Đã đành rằng trên thực tế hiện nay cũng có nhiều vị linh mục giữ mình độc thân và xả thân trong công việc đạo giáo không mấy khó khăn.

Nhưng phần còn lại những người khác, việc giữ mình độc thân là rơi vào trong một hoàn cảnh quá khó khăn không chịu đựng nổi. Họ như những con chim bị đạn tự dấu mình và chết lặng lẽ âm thầm cả đời. Và nếu họ vi phạm việc độc thân thì họ rơi vào hoàn cảnh lén lút với nhiều hậu quả rất tai hại.

Và nếu chẳng may có con thì việc đó còn tai hại gấp đôi.

Trong một thăm dò vào ngày 19 tháng 3 năm 2010 của ARD-Deutschlandtrend thì có đến 87% cho rằng việc cấm hôn nhân trong chức vụ linh mục thì nay tỏ ra không thức thời nữa.

Cá nhân người viết bài này đã được chứng kiến nhiều vi phạm của các linh mục trong đời sống độc thân. Báo chí, truyền thông cũng nói đến rác tai về vấn đề này. Những vi phạm tình dục của giới tu sĩ hiện nay phần lớn đều là những tội phạm hình sự chứ không phải ở phạm vi đời thường.

Đời thường người ta vi phạm “luật đời thường” về mặt tình dục vì tính cách “ngang trái” mà pháp luật không thể đụng tới, chỉ có dư luận bàn tán lang bang.

Nói chung, quan hệ tình dục đời thường chỉ thực sự liên hệ đến hai người ở tuổi trưởng thành đều có hiểu biết và trách nhiệm. Và chỉ nhất thiết quan hệ đến hai người và chỉ hai người mà thôi. Trừ khi họ có những khế ước còn giá trị pháp luật với người khác.

Người thứ ba dòm ngó vào thì cái lỗi không hẳn về phía người hành xử mà về phía người nhòm vào. Phải kết án kẻ nhòm vào hơn là kết án kẻ hành xử.

Một mặt, người viết nhận thức một cách rõ ràng là việc duy trì và bảo vệ quy chế một vợ một chồng là gặp quá nhiều trở ngại. Nhưng mặt khác, việc cho phép linh mục, tu sĩ được quyền có gia đình là một quyết định quá táo bạo không ai dám đề xướng.

Vấn đề trinh tiết như một biểu tượng đạo đức hay không đạo đức

Người viết còn nhớ khi đọc cuốn truyện nổi danh của Mario Puzo, the godfather (Bố già), có một chương nói về vụ con gái của Bố già sắp làm đám cưới. Khổ nỗi cô con gái Bố Già đã trót mất trinh nên phải tìm đến một bác sĩ tín cẩn, kín đáo để hoàn chỉnh lại cái màng trinh của cô con gái cho khỏi mang tiếng hư hỏng. Viên bác sĩ đã trả lại cái màng trinh như nguyên thủy của cô gái. Đó là một công việc tuyệt vời về mặt xã hội chỉ những người có quyền thế và giầu sang như Bố Già mới làm được

Thế còn đa số dân thường mà người con gái bị mất trinh trước khi lập gia đình thì tính sao đây? Ở Ấn Độ chỉ cần chi khoảng 200 đến 1000 đô la Mỹ (tùy theo giá ở bệnh viện công hay clinique tư) phụ nữ có thể vá hay làm màng trinh mới. (Hymenoplasty – Treatment, Procedure And Side Effects.

Trong những hủ tục của chế độ xã thôn thời xưa, người con gái mất trinh sẽ bị làng xã phạt vạ cũng như Hàng xứ phạt vạ, cạo trọc đầu bôi vôi và bị điệu đi khắp làng do anh mõ đi rêu rao.

Thế còn những kẻ gây ra tội là cánh đàn ông thì lại được miễn trừ. Điều này thật sự là bất công và oan ức cho thân phận người phụ nữ.

Câu chuyện ấy bắt nghĩ đến số phận những người phụ nữ nói chung thời trước thập niên 1960 rất là vất vả lao đao.

Bằng mọi giá phải giữ được cái màng trinh nguyên vẹn. Mất nó là mất cả đời con gái, mất cả tương lai hạnh phúc. Là một bản án chung thân không có trường hợp giảm khinh. Sao lại vô lý quá. So với đàn ông thì thiệt thòi quá. Truy ra thì không ai khác là do ông Khổng Tử, một ông lái buôn chính trị đặt để ra!

Cái giường của đêm tân hôn với tấm nệm giải trắng tinh sẽ là bằng cớ cô con gái còn trinh bạch hay không? Người đàn ông, dù đã đám cưới, nhưng biết được người vợ đã mất trinh có thể hủy bỏ cuộc hôn nhân đó một cách chính đáng và đòi lại những tốn kém đã bỏ ra trong cuộc hôn nhân.

Nhưng đấy chỉ là những quan niệm có thể nay đã trở thành lỗi thời. Vì thế, tôi thử mượn lời nhà văn Phạm Thị Hoài trong bài “Viết cho ngày Phụ nữ”.

Ngay lời Mở đầu bài viết, PTH đã thằng thừng, sòng phẳng:

“Không có gì thể hiện sự khinh bỉ đàn bà sâu sắc như tệ sùng bái gái trinh của đàn ông một số nước Châu Á, đặc biệt là Việt Nam và Trung Quốc. Ngẫm nghĩ về việc săn trinh những cô gái trẻ để lấy đỏ trong làm ăn, tôi từng sa vào những thắc mắc: Trinh tiết đàn bà giúp được gì cho business? Tăng nguồn đầu tư chăng? Phá trinh một em xong thì trúng tuyển công chức chăng? Mấy em gọp lại thì đủ trúng thầu một cầu vượt?”

Phạm Thị Hoài viết tiếp về các cửa một cách mỉa mai và thâm độc:

“Cửa Phật, cửa Thánh, cửa Mẫu hay cửa Mình của chị em đều là chỗ để đặt niềm tin vào tài lộc do các thế lực siêu nhiên ban phát theo quota. “

Và Phạm Thị Hoài kết luận:

“Đằng sau hiện tượng sùng bái mấy giọt máu này mà không có gì huyền nhiệm mà thuần túy là một phép tính lạnh lùng. Nó bắt nguồn từ tập quán đàn ông đi nhả thổ để giải đen. Họ tin rằng toàn bộ sự xui xẻo trong mình sẽ theo dòng tinh trùng mà xả ra. Sau cơn mây mưa họ sẽ được tẩy trần, sạch dơ dớp nhơ nhớp của vận hạn.”

Giọng văn có vẻ sỗ sàng, nhưng sự thật có thể là như thế.

Tôi vẫn thích lối viết sống sượng của Phạm Thị Hoài. Nó vẫn có cái gì chân thật ở trong đó. Trong khi tôi lại thậm ghét một số lớn phụ nữ chỉ có tài đi “buôn chuyện”, tài thậm thụt, soi móc đủ thứ đời tư nhà người khác.

Đáng lẽ phải có một chính sách đánh thuế nặng nề cái mồm trên của những kẻ đi buôn chuyện cho họ chừa. Tội ác của họ là sự độc ác, thâm hiểm, thiếu một tấm lòng.

Cũng vì sự quý mến Phạm Thị Hoài, xin giới thiệu hai truyện ngắn của bà. Một dành cho đàn ông, một dành cho đàn bà.

Chuyện chín bỏ làm mười (Nine down makes two) do Peter Zinoman, giáo sư sử học, đại học Cornell chuyển ngữ sang tiếng Anh. Chuyện thứ hai dành cho các bà: “Ám thị”. Hay tuyệt. Truyện nào cũng hay cả. Và mục đích của nhà văn là tố cáo sự giả hình trong truyện chăn gối?



Nhưng ngày hôm nay, vấn đề trinh tiết ở Việt Nam đã trở thành “vô nghĩa” khi hằng trăm ngàn gái Việt đã được bán sang Trung Quốc, Đài Loan. Một phóng viên ngoại quốc, Patricia có làm một điều tra tại TP Hồ Chí Minh nhan đề: Traffic des femmes. (Cuộc buôn phụ nữ) qua trung gian môi giới của một người đàn bà Trung Quốc có tên là Wang với nhiều môi giới bên Việt Nam. Bà Wang có khoảng 100 người đàn ông Trung Quôc, được gọi là “nhánh cô đơn” muốn tìm vợ ở Việt Nam. Một thanh niên ở một vùng núi ở phía Đông Nam Trung Quốc tên là Xiao lu đã tìm được một cô gái Việt Nam tên Thu Yến, ở dưới lục tỉnh. Anh Xiaolu lu đã đồng ý và trả một số tiền trên dưới 10.000 Eurô. Sau đó cả hai anh chị đã về dưới quê của Thu Yến để chính thức làm một đám cưới. Thủ tục giấy tờ xong thì Thu Yến phải theo Xiao lu về quê của anh ta.

Gia đình anh Xiaolu trên thực tế ở trong một túp nhà nghèo nàn, ở một vùng núi mà phần chính là làm nông. Đời sống lam lũ và nghèo nàn không như lời phô trương, khoác lác của anh Xiao lu. Thu Yến thất vọng và muốn quay về Việt Nam. Nhưng câu chuyện không đơn giản vì trước Thu Yến cũng đã có nhiều cô Việt Nam khác đã sang đây, cũng gặp nhiều cảnh ngộ khác nhau. Đây thật sự chỉ là một tổ chức buôn phụ nữ không khác gì việc buôn các nô lệ thời xưa.

Hầu hết các phụ nữ này thì đều không còn trinh vì mức dinh dưỡng, nhiều cô gái đã phát triển tình dục sớm từ lúc 14-15 tuổi.

Đáng lẽ vấn đề này cần những kẻ đi buôn chuyện mạnh dạn lên tiếng bênh vực thì vô lý thay họ lại ngậm miệng làm thinh. Khi không cần lên tiếng thì họ già mồm. Khi cần lên tiếng thì họ lại ngậm miệng!

Vấn đề đặt ra ở đây là tương lai giới trẻ Việt Nam sau này ra sao? Không lẽ, con trai thì ma cô con gái thì đĩ điếm?


Cô gái Miền Tây bị chồng Đài Loan vứt xác xuống biển

Kết luận chung cục về đời sống lứa đôi

Trong suốt quãng đời sống từ trẻ đến già đến giờ của một đời người. Đã bao lần chứng kiến những nỗi truân chuyên của phụ nữ? Giữa đàn ông và đàn bà, số phận nghiệt ngã thường dành cho giới phụ nữ.

Ai cũng có thể có mẹ và những người chị, người em gái. Và đối với người viết bài này họ là những mẫu hình tuyệt vời.

Hẳn đã có nhiều dịp hay cơ hội chứng kiến những bất công, những nỗi oan khiên giữa các đôi trai gái mà nạn nhân phần lớn là phụ nữ.

Một bà chị họ của người viết, thập niên 1950 bi gia đình ép lấy một sĩ quan. Chị tuân lời, nhưng ngay sau khi cưới hỏi xong lên Đà Lạt hưởng tuần trăng mật thì một hai bữa sau, chị đã tự tử. Truyện này xảy ra cách đây cũng trên nửa thế kỷ rồi.

Thời sinh viên, một cô nữ sinh lên Đà lạt để gặp người yêu là một sinh viên cùng lớp với người viết. Một tuần sau, người sinh viên muốn gửi cô về lại với gia đình. Cô nữ sinh không chịu vì không còn mặt mũi nào nhìn ngó lại ba má, chị em. Trên đường về, đến Định Quán, cô bất thần gieo mình ra giữa lòng đường và bị một xe từ Đà Lạt đổ dôc chạy về hướng Sai Gòn cán chết ngay tại chỗ.

Phải chăng hồng nhan là bạc mệnh? Phải chăng má hồng nhiều nỗi truân chuyên. Hai cái chết đau thương ấy ám ảnh người viết mãi.

Trong cái cõi riêng tư, sau 1975, giữa cái chập chùng đau khổ miền Nam rơi vào tay cộng sản. Những người đồng cảnh ngộ gặp nhau trở thành tình bạn thắm thiết. Người con gái miền Trung, đẹp dịu hiền vượt trội trên đám bạn bè đồng nghiệp, mới 25 tuổi đời , đã một thân một mình trông nom các em còn nhỏ dại vì cha phải đi học tập.

Khi sang đất người, vừa lo thân mình, vừa lo tương lai các em, vừa một tay chăm sóc bố mẹ già để các em lo học làm lại cuộc đời. Khi nghĩ đến phận mình thì tuổi đời đã muộn. 50 tuổi, chắp nối không xong. Các em đều lớn lên có thân có phận thành đạt. Còn lại mình chị cô đơn lẻ bóng..

Vì thế trong thâm tâm, cảm thông và chỉ thấy sự thiệt thòi của phái nữ. Nói chi cũng bằng thừa.

Nhưng người viết vẫn tin tưởng vào mẹ và các chị, vào những người phụ nữ với đày thiện ý của con người và đồng thời cũng tin vào các niềm tin tôn giáo. Khi trần thế không tự xoay sở xong lấy một mình thì phải tin vào một cái gì ở ngoài trần thế.

Được biết, toàn khu vực Cái Sắn có khoảng 40.000 ngàn người. Mặc dầu bị chính quyền CS sau 1975 bỏ rơi nhưng họ vẫn giữ đạo. Không nghe nói các cô gái bỏ làng đi lấy chồng ngoại quốc như các làng chung quanh? Điều gì đã níu chân các người con gái trong các xứ đạo còn giữ được phẩm chất?

Nhưng nhìn lại sự đổ vỡ trong hôn nhân là do nhiều yếu tố cộng lại. Trong đó yếu tố xã hội được coi là quan trọng nhất.

Thì hãy cứ nhìn đời sống hiện nay của Việt Nam ắt rõ. Cải cơ cấu, trật tự xã hội như giáo dục, pháp luật là cần thiết góp phần xây dựng đích thực cho xã hội Việt Nam đã sụp đổ. Con người sụp đổ theo. Cơ cấu xấu vẫn còn thì người xấu vẫn còn. Muốn cải thiện con người thì phải thay đổi cơ cấu trên nền tảng tôn trọng con người.

Vốn là người lạc quan nên người viết có nhiều mong đợi và tin tưởng vào tương lai con người và gia đình Việt Nam trong nước cũng như ngoài nước.

Như một lời cầu chúc. Hơn thế nữa, một nguyện ước, một lời nguyền.

Nguyễn Văn Lục.

No comments:

Post a Comment